Thứ Năm, 16 tháng 4, 2020
Thứ Tư, 4 tháng 3, 2020
TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?
ĐỖ DUY NGỌC
Đặng Lê Nguyên Vũ, Chủ tịch của tập đoàn cà phê Trung Nguyên, khi ra toà để ly dị vợ và phân chia tài sản có nói một câu mà sau đó nhiều người hay nhắc lại: TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?.
Ừ! Tiền nhiều để làm gì khi gia đình tan vỡ, vợ tố chồng giữa toà án, chồng đay nghiến vợ trên truyền thông. Nhiều tiền chưa hẳn là hạnh phúc. Đúng là khi nghèo khổ, cơ cực, người ta mong ước có tiền, nhưng đến một lúc nào đó, tiền không phải là tất cả.
Khi dịch Corona tấn công người dân Vũ Hán, thành phố bị phong toả, rất nhiều người nhiễm bệnh và cũng rất nhiều người đã chết. Tôi vừa xem một clip trên báo, ghi lại hàng ngàn tiếng thét, tiếng la đau đớn và tuyệt vọng trong đêm xuất phát từ những chung cư, cao ốc ở thành phố Vũ Hán. Sau gần một tháng bị phong toả, người dân Vũ Hán đã quá sức chịu đựng và họ thét lên như để xả bớt stress. Trong tình cảnh này, tiền nhiều cũng chẳng làm gì. Do vậy đã có người từ trên toà nhà cao tầng rải tiền như mưa xuống đất. Đến lúc này họ thấm thía tiền nhiều để làm gì khi sinh mạng bị đe doạ, cuộc sống bị tù hãm, không mua được lương thực để sống tạm qua ngày.
Tình trạng này cũng giống ở thành phố Daegu, miền nam Hàn Quốc, nơi trở thành ổ dịch với mức độ lây nhiễm kỷ lục, chỉ đứng sau Trung Quốc. Cũng đã có người đứng trên lầu cao rải số tiền rất lớn xuống đất, giấy bạc bay trắng trời. Trong hoàn cảnh như thế, tiền không còn giá trị gì nữa.
Tôi có một người bạn rất giàu, giàu lắm. Anh ta suốt cuộc đời cặm cụi làm ăn, có cơ hội là không bao giờ bỏ sót. Lo làm giàu, anh quên luôn bản thân, kiếm thật nhiều tiền là niềm vui. Chưa kịp hưởng thụ cái tài sản khổng lồ anh kiếm được thì phát hiện ung thư thời kỳ cuối. Anh qua đời trong tiếc nuối. Sau đó, nhà anh người ta ở, tiền anh người ta xài, con anh người ta sai, vợ anh người ta lấy. Khốn khổ chưa!
Đôi khi câu nói Tiền nhiều để làm gì lại nhắc nhở chúng ta một thái độ sống. Phải nhớ Tiền không phải là mục đích lớn nhất của đời người, cái cần thiết chính là sự bình an trong cuộc sống, là sức khoẻ, là sự tự do, là hạnh phúc và hưởng được một cuộc sống đích thực. Đương nhiên không có tiền thì cũng khó sống, bị khinh khi, nhục mạ, bị thiếu thốn đủ điều. Nhưng nhớ rằng nó không phải là mục đích của cuộc đời. Người ta thường bảo rằng: Nói về tiền, con người có hai niềm bất hạnh, bất hạnh thứ nhất là sống mà không có tiền và bất hạnh thứ hai là chết mà còn nhiều tiền.
25.2.2020
ĐỖ DUY NGỌC
Thứ Năm, 27 tháng 2, 2020
Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2020
Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2019
Thứ Ba, 16 tháng 7, 2019
Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2019
TRẠI LONG GIAO VÀ CUỘC TRỐN TRẠI BẤT THÀNH.
DUY VĂN
Tôi không nhớ rõ ngày nào
tôi bị chuyển từ trại tù số 20 Phú Quốc về trại giam Long Giao, nhưng tháng thì
vào khoảng tháng 6 của năm 1976.
Hàng trăm xe motolova do
Trung Cộng sản xuất, chạy tọt vào chiếc duyên vận hạm HQ504 của Hải Quân VNCH (Việt cộng lấy làm chiến lợi phẩm sau ngày 30- 4 - 1975) mới hải hành từ Phú Quốc về đậu tại Tân cảng (Newport) để bốc những người
tù của chế độ cũ đưa về trại giam Long Giao. Tôi và 39 tù nhân khác bị đưa lên
xe số 10.
Long giao là xã nhỏ thuộc tỉnh Long Khánh, và trại giam Long Giao
trước đây là căn cứ của 1 trung
đoàn bộ binh thuộc sư đoàn 18 của Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa.
Khoảng 2 giờ đồng hồ, xe dừng
lại trên một bãi đất trống, đối diện là một trại giam có nhiều cốt gác và hàng
rào kẻm gai chằng chịt. Hai tên vệ binh tay trái mang băng đỏ và tay phải thì
lăm lăm khẩu AK báng xếp từ trên xe nhảy xuống đất hướng súng về phía người tù
đang ngồi trên xe ra lệnh phải ngồi im, không được quyền xuống xe, nếu ai cải lịnh
sẽ bị bắn bỏ. Vì di chuyển nhiều ngày bằng tàu, và nhiều giờ bằng xe, nên cơ thể
của tôi không chịu nổi sự dồn nén, cơ quan bài tiết của tôi đã đòi hỏi sự thoát
nước. Tôi định hỏi 2 tên vệ binh cho tôi xuống tiểu tiện. Khi tôi đến gần phía
sau đuôi xe thì đồng lúc bửng xe cũng đã hạ để chuẩn bị cho người tù chúng tôi
xuống xe vào trại. Tôi nhảy tọt xuống đất, tên vệ binh mặt rổ chỉa mũi súng vào đầu tôi và bắt tôi ngồi xuống
đất. Hắn ta quay báng súng đánh vào vai của tôi nhiều phát đau điếng người. Hắn
quát : chưa có lệnh tôi sao anh nhảy xuống? Tôi trả lời tôi cần tiểu tiện, nên
nhảy xuống hỏi anh .Tên vệ binh mặt rổ nói không tiểu tiện gì cả, mặt hắn ta cứ
lầm lừ.
Những tù nhân trên xe được đưa vào trại, lúc đó khoảng
10 giờ đêm. Mọi người được nhóm cán bộ quản lý trại chỉ chổ ở. Riêng tôi, tên vệ
binh mặt rổ giải giao cho một bộ đội tên là Thuyền, tên này mang quân hàm Trung
úy. Tôi nói với tên Thuyền cho tôi được tiểu tiện tên Thuyền dẫn ra một nhà xí
ngoài trời.Khi xong, tên này đem tôi nhốt vào một conex gần cạnh bờ rào và
không quên nhắn nhũ : ngày mai tôi sẽ làm việc với anh về việc không tuân theo
lệnh vệ binh. Ở trong conex, tôi ngủ thiếp lúc nào không biết.
Tháng sáu trời Long Giao nắng
gắt, mắt nhìn vào những khoảng đất trống hay đường nhựa cảm tưởng như có hơi
nóng bốc lên. Conex thường bằng sắt, nên rất hít chất nóng, nếu nhiệt độ bên
ngoài khoảng 20 độ thì bên trong conex nhiêt độ có thể tăng lên gấp đôi.
Tôi bị nhốt trong conex đến
trưa hôm sau, tên Thuyền đến mở cửa và dẫn tôi ra ban chỉ huy trại mà người tù
chúng tôi thường gọi là “khung”. Ở đây tôi bắt phải viết bản kiểm điểm với một
tên bộ đội gọi là cán bộ chấp pháp. Tên cán bộ chấp pháp này hỏi tôi lý do nào
tôi nhảy xuống xe khi chưa có lệnh của vệ binh. Và hành động của tôi như thế có
phải muốn trốn trại? Tôi viết kiểm điểm
cùng giống với lời khai là vì tôi rất mắc tiểu tiện nên phải nhảy xuống xin
phép vệ binh, nhưng anh vệ binh đã nghĩ thế nào đó đã đánh tôi và bắt nhốt, giải
giao đến khung.
Làm việc xong với tên cán bộ
chấp pháp này, tôi được đưa về đội 4. Đội này do tên trung úy Tiêm làm đội trưởng
, đội phó là tên thiếu úy Be. Về phần đại diện đội tù thì người tù HKL đảm nhiệm để làm trung gian giữa cán bộ
và tù nhân. Đội 4 giống như các đội tù
khác như đội 1, đội 2 và đội 3 cùng trại là: lao động khổ cực ngoài nương rẩy,
chặt cây rừng làm củi đốt, trồng mì, phát hoang , hoặc dọn những bãi mìn còn
sót lại của những đồn bót sau chiến
tranh.
Công việc đốn cây rừng và gỡ
mìn là hai nhiệm vụ mà đội 4 thường làm. Một bửa nọ, tên Thiếu úy Be dẫn 10 người
tù của đội 4 trong số đó có tôi. Mỗi tù nhân đi gỡ mìn được phát một bàn cào sắt
giống như cào cỏ của Trư Bát Giới dùng làm vũ khí đánh yêu quái trong chuyện
Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, một tác giả là người Trung Quốc chuyên viết những
truyện cổ có tính phiêu lưu . Nhưng cào cỏ của họ Trư có cán, còn bàn cào của
những người tù gỡ mìn không có cán, mà được thay cán bằng một sợi dây điện hay
dây nylon dùng cột võng trường sơn của mấy tên bộ đội miền Bắc. Mỗi người tù đi
gỡ mìn cũng còn trang bị thêm một xẻn nhỏ dùng để đào lỗ ẩn thân.
Bãi mìn đầu tiên toán tù mười người chúng tôi gỡ là một
đồn của lính VNCH cách xã Cẩm Mỹ 1 cây số. Đồn nằm trên một vị trí gò đất cao
nên mùa nắng đất rất cứng, khó cho việc đào hố ẩn thân. Nhưng để bảo toàn sinh
mạng, người tù buộc phải đào được hố sâu
qua khỏi đầu.
Mười tù nhân chúng tôi ngồi
thỏm trong hố cách nơi có mìn chừng khoảng mươi mét. Theo lệnh của tên thiếu úy
Be, chúng tôi quăng những cào sắt có cột dây vào khu vực có mìn và kéo rà như vậy
nhiều lần. Những quả mìn lộ thiên khi bị chạm vào cào sắt sẽ nổ làm đinh tai điếc
óc, lắm lúc những người tù chúng tôi phải chết bởi miễn do những quả mìn nổ gây
ra.
Một lần gỡ mìn ở Cẩm Đường
toán tù gỡ mìn của chúng tôi mất mạng 2 người vì quả mìn cóc nổ tiếp cận. Anh T
bị một miểng mìn xuyên qua lồng ngực, còn anh G thì bị vở vùng cổ và càm.
Mỗi lần đưa người tù đi gỡ
mìn bọn họ đem theo rất nhiều vệ binh để canh chừng người tù. Họ đứng rất xa để
quan sát và ra lệnh chứ không dám đứng gần.
Tên thiếu úy Be là người sắc
tộc miền núi nên giọng nói rất khó nghe. Mỗi khi hắn ta truyền lệnh gì cả toán
chú ý lắm mới hiểu được nội dung hắn ta
nói.
Có lần, hắn ta dẫn cả đội
vào rừng chặt cây vác về làm nhà, cùng theo hắn có 4 vệ binh hầu hết là người thiểu số miền Bắc. Hắn gọi đội
trưởng HKL giao trách nhiệm để HKL truyền lại cho anh em tù hiểu mà làm theo. Cả
đội tù chúng tôi nhìn thấy anh HKL cứ hỏi lại hắn ta nhiều lần, có lẽ vì anh đội
trưởng không nghe nổi giọng nói của hắn nên yêu cầu hắn đến trước đội nói lớn
cho anh em tù cùng nghe.
Hắn chỉ thị anh HKL : “ anh dãn dọi nên khu rừng Com My dón cây, vất về đại, để nàm nớp học nà náng.
Mõi người như vọi nà hai cây có đường kánh nà
10 centimét.”. Đó là nguyên âm câu chỉ thị của hắn, mãi sau quen dần
giọng nói của hắn những người tù chúng tôi mới hiểu hắn ta nói: “ anh dẫn đội
lên khu rừng Cẩm Mỹ đốn cây, vác về trại , để làm lớp học và láng. Mỗi người
như vậy là hai cây có đường kính là 10 centimét”.
Giải mã xong cả đoàn tù vào rừng. Trong chuyến đốn cây rừng này,
tôi ngất xĩu bởi do một cây rừng dính vào dây leo phóng mạnh đập vào lưng làm tôi té, đập đầu vào một tảng đá cuội. Ở trại D12 Long Giao, người tù vào rừng đốn
cây, thường được phát một con dao dài trông giống như một chiếc mã tấu, nhưng thô kệch hơn mã tấu.
Cây dao này cũng do những người tù làm từ nguyên liệu là những cọc sắt “ấp chiến
lược” nên độ bén không lâu như những chiếc dao làm bằng thép nung. Chặt vài ba
nhát thì đã lục ngay, phải mài lại mới có thể dùng được nữa. Thế mà bọn cai tù
đặt chỉ tiêu là phải chặt nhiều cây, thì mới gọi là lao động tốt. Có những bạn
tù sau ngày đốn cây rừng hai bàn tay phồng dộp cả lên, mà không có thuốc chửa
nên lâu ngày lở loét, nhiễm trùng nhiều người phải cắt bỏ bàn tay.
Vào năm 1978, cả nước đều
đói, do việc cộng sản Việt Nam lấy lương thực đặc biệt là gạo trả nợ chiến tranh cho quan thày
Nga – Tàu, nên bọn cán bộ cai tù ra chỉ thị cho các tù nhân phải lao động cật lực
hơn, tăng sản xuất. Người tù phải ăn độn bo bo , củ mì khô sắc lát hoặc bắp ,
nhưng các thứ ngũ cốc này cũng không đũ ăn. Tiêu chuẩn một phần ăn cho người tù
tại trại D12 Long Giao là một chén bắp hột nhỏ, với một miếng cá khô chỉ bằng
ngón tay trỏ của đứa bé 10 tuổi. Thế nhưng phải lao động nhọc nhằn theo chỉ
tiêu của bọn cai tù đưa ra. Với tình trạng ăn uống thiếu thốn mà phải làm quá sức,
nhiều tù nhân đã ngã bệnh, khi bệnh không có thuốc uống, chỉ uống lá cây rừng
thay thuốc. Loại lá rừng thường được người tù dùng để chửa bá bệnh đó là lá mặt
nhân và dây nhản lồng. Có những người tù chết vì kiệt sức thân xác của họ được
cuộn vào manh chiếu hay đệm rách và rồi được đem chôn sơ sài ngoài một bãi đất
hoang cách trại giam vài trăm mét. Những người tù bệnh kéo dài nhiều ngày, bọn
cai tù cho bắt đưa lên khung cho y tá của họ khám lại, phần lớn đều bị cưởng
bách lao động vài ngày sau đó, mặc dù còn bệnh.
Sau ba tháng áp dụng kế họach
chỉ tiêu, tăng năng xuất, tù nhân bị bệnh quá nhiều mà hầu hết cùng một thứ bệnh
là kiệt sức. Bọn cai tù mới cho viết thơ thông báo gia đình tù thăm nuôi. Lần đầu
tiên được gia đình thăm nuôi và tiếp tế thực phẩm sau ba năm 4 tháng kể từ ngày
tôi bị bắt vào tù. Gặp lại người thân tôi rất mừng, nhưng người thân và tôi
cũng không trọn mừng sau bao ngày xa cách
vì không nói được gì. Bởi bọn cán bộ ngồi xồng xộc trước mặt để theo dõi
từng cử chỉ của tù nhân và gia đình, lại nữa thời gian thăm nuôi thì quá ít ỏi.
Không đầy 5 phút, tôi phải
chia tay với người thân, vào lại trại giam, trong khi người thân của tôi phải lặng
lẽ ra về trong nỗi bùi ngùi.
Trong tình trạng đói khát trầm
trọng, bọn cai tù buộc mỗi người tù phải tự túc trồng rau sắn để cải thiện đời
sống. Những luống rau muống hoặc dền được người tù canh tác đầy trong khuôn
viên trại giam, mùa khô trong trại chỉ có một cái giếng do tù nhân đào , không
đủ nước để tắm giặt nói chi có nước để tưới rau, người tù phải dùng nước tiểu của
minh để giải quyết tình trạng thiếu nước của rau. Rau trồng lớn, cán bộ phụ
trách nhà bếp ( anh nuôi) vào thu gom và khen thưởng người tù nào có số rau đạt
chỉ tiêu. Họ mở nhiều đợt thi đua dồn ép người tù phải làm, nếu nhiều lần thu họach
không đạt chỉ tiêu thì phải làm tờ kiểm điểm. Tờ kiểm điểm phải nói rõ lý do
nào mà không đạt chỉ tiêu. Sau việc viết tờ kiểm điểm, bọn cai tù đưa ra kiểm
thảo và đấu tố. Nhiều tù nhân bị kỹ luật vì việc trồng rau không đũ chỉ tiêu
như thế này.
Cứ mỗi một tháng bọn cai tù bắt những tù nhân
đem đồ đạc ra bày giữa sân để bọn chúng kiểm tra. Chúng không cho biết mục đích
của sự kiểm tra, thế nhưng việc kiểm tra đồ đạc của người tù trong trại D12 thật
khắc nghiệt. Họ tịch thu tất cả tiêu, ớt, thuốc tây, dao, kéo, gạo sấy, mì gói,
tiền , lương thực khô, sách báo có chữ ngoại quốc, kinh điển, đặc biệt là thuốc
trụ sinh.
Lần kiểm tra đồ đạc vào khoảng
tháng 12
năm 1978, để bọn cai tù bộ đội bàn giao tù nhân trại D12 cho bọn cai tù
công an ( bò vàng) , tôi bị tên Thiếu úy Be tịch thu nguyên bộ sách English For
Today của Lê Bá Kông và qui cho tôi tội còn ngưỡng vọng Mỹ, luyến tiếc
cuộc đời làm tay sai. Hắn bắt tôi
viết kiểm điểm làm sáng tỏ sự việc này. Sau khi viết xong bản kiểm điểm, hắn tống
giam tôi vào conex. Ở trong conex khoảng 2 giờ đồng hồ, tên trung úy Tiêm đội
trưởng đội 4 cùng với anh HKL mở cửa conex thả tôi ra và cho biết nếu vi phạm một
lần nữa sẽ bị nhốt biệt giam.
Trong trại giam D12 có 4 đội
tù. Mỗi đội trực nhà bếp một tuần, nên anh đội trưởng phải cử người để canh chừng
và đun lửa cho các chảo bắp nấu .Các đội khác cho người làm tốt được ban quản
giáo khen ngợi, bởi lẽ khi bắp hột cho vào trong chảo nấu tất cả hạt bắp sẽ nở to và sẽ đẩy bung nắp chảo lên. Cán bộ đến
kiểm tra thấy vậy cho là tốt. Một hộm đến đội 4 của tôi và lại đúng vào ngày
tôi trực bếp tên cán bộ hậu cần ( anh nuôi) đem bắp ra do , đong và đưa một ít
vôi để pha vào trong chảo cho bắp mau nở . Xong việc tên cán bộ ra ngoài khung.
Trong bếp còn lại anh Luông (hiện nay ở Oklahoma US) và tôi. Hai chúng tôi thay
phiên nhau ngũ và canh 4 chảo bắp đến khuya các chảo bắp đã chín và các hạt bắp
đã nở to đẩy nắp vun chảo lên khá cao. Hai chúng tôi đều an tâm định ngũ một giấc
đến sáng bàn giao cho cán bộ “ khung”. Chắc sẽ được khen .Nhưng sáng ngày hôm
sau hai chúng tôi không được khen mà ngược lại còn phải làm kiểm điểm, bởi do 4
chảo bắp không còn đẩy vun như lúc khuya.Tên cán bộ hậu cần nói: Với liều lượng
vôi và hạt bắp như vậy, tôi tin các chảo bắp sẽ nở rang lên đầy cả vun và ta sẽ
có đủ lương thực phát cho các anh cả ngày. Nhưng tôi thất vọng đối với hai anh.
Hai anh phải giải thích rõ thế nào về sự giảm súc của các chảo bắp, nếu không
tôi sẽ đề nghị nhốt hai anh.Tôi cứ giải thích lòng vòng để nó qua truông.Còn
anh Luông cứ chối thẳng thừng là anh không biết vì về việc các chảo bắp bị tụt giảm.Tên cán bộ hậu cần quay mũi dùi vào tôi
mà tấn công liên tục . Hắn ta nói: anh Luông không biết còn tôi là thế nào? Tôi
nói với anh ta rằng: có lẽ cán bộ đưa cho tôi loại bắp không nở tốt như các loại
bắp anh đưa cho các đội khác. Tên cán bộ quả quyết rằng anh ta làm đúng và tôi
là người sai.Cuối cùng tôi bị kiểm điểm và bị tống vào conex bởi một viên thiếu
úy ban chấp pháp của trại. Vì anh ta đã có lời khai của một người bạn tù của
tôi, ( tạm dấu tên) cho rằng tôi đã mở các chảo bắp cho anh em tù tự động xuống lấy bắp nên các chảo bắp mới bị tụt giảm như
vậy.Thực vậy, khi anh Luông ngũ còn lại mình tôi. Tôi thấy anh em tù của mình
đói quá xuống nhà bếp xin ăn tôi làm lơ cho lấy, nhiều bạn tù lấy nên các chảo
bắp đã giảm xuống tới mức như vậy. Người bạn tù của tôi lấy nhiều bắp hôm đó là
anh “ Cóc Ma ru” tức trung úy cảnh sát đặc biệt Nguyễn Hữu Ngọc (đơn vị bót Bà
Hòa Chợ Lớn) Anh Ngọc có một đặc tính rất
điềm đạm, nhưng rất là ngang tàng, thuộc loại chịu chơi thời thượng, nên ít khi
làm phiền hà bạn bè, nhưng tôi không biết vì sau đêm hôm đó anh ta lấy bắp nhiều
quá. Tôi biết anh dùng lon guigoz xúc vào chảo bắp đến 5- 6 lượt. Có lẽ anh có
kế hoạch riêng vì cho anh đối với cuộc sống đầy tù tội khốn khổ này.
Sau khi, trở về đội lao động
từ conex thời gian cũng chiếm mất một tuần. Tôi không được làm việc theo lịch
luân phiên ở nhà bếp nữa. Tới phiên tôi anh đội trưởng HKL theo lệnh của cán bộ
cắt người khác thay tôi. Tôi chỉ còn được phép theo cán bộ hậu cần và các anh em
đi khuân gạo và thức ăn từ nhà thầu đem đến từ những “chiếc xe đò lỡ”chạy bằng
than đá. Đây là dịp tôi đã tiếp xúc được với các anh tài xế và lơ xe trong lúc
hành sự. Và nhờ nhiều lần đi lấy hàng định kỳ như vậy qua trao đổi tôi hiểu rõ một phần nào cuộc sống của dân
chúng bên ngoài sau 4 năm nằm trong trại tù bịt kín.
Đêm, ngày, tháng…. năm 1978. Đã đến 2 giờ sáng tôi
vẫn chưa ngũ, người bạn tù nằm cùng bên vẫn thao thức, nhưng chúng tôi không thể
nói chuyện qua lại được vì sợ làm phiền những bạn tù khác, hoặc cũng phải dè dặt
với những người đồng cảnh không tốt với mình. Ba giờ sáng,chúng tôi cùng nghe
tiếng súng nổ lớn và giòn gần như đâu đây quanh trại. Tôi và người bạn tù định
chồm dậy để xác định hướng súng nổ , nhưng không dám. Chúng tôi nhìn nhau, và cố
định hướng. Thật ra một ảo giác nào hoặc là do tiếng gió thổi đồn mạnh về hướng
trại của chúng tôi, chứ tiếng nổ không gần như chúng tôi nghĩ. Tiếng súng nổ gần
sáng mỗi lúc lại tăng lên và im sau khoảng 5 giờ sáng.
Sáng hôm sau, sớm hơn giờ tập
họp đi lao động. Chúng tôi thấy bộ đội ngoài “khung” và quản giáo, chấp pháp đã
tràn đầy vào khuôn viên trại. Các vệ binh lăm le trên tay những khẩu súng AK và
CKC có vẽ như muốn đè bẹp hoặc uy hiếp tinh thần những người tù nhân chúng tôi
về một việc gì đó mới vừa xảy ra.
Tên Thân trưởng trại cho các
đội tù ngồi tập họp trước sân các láng. Với điếu thuốc “ Điện Biên” ông ta xoe đi xoe lại trên môi và nói: “ Hôm
nay, chúng tôi tập họp các anh lại và hôm nay các anh không phải đi lao động.
Mà hôm nay,các anh sinh hoạt trong trại với chúng tôi. Chúng ta cần tìm hiểu về
đường lối “ cài đặt “ của bọn CIA Mỹ và Ngụy.Như các anh đã biết “ bọn phản động
Mỹ - Ngụy, cho đến nay vẫn còn tạo sự nguy hiểm cho nhân dân và đồng bào ta. Đã
hơn 4 năm kể từ Đảng và nhân dân ta “ giải phóng” thống nhất đất nước. Bọn phản
động vẫn không để cho chúng ta bình yên. Tối đêm qua,nhân dân họ Đạo miền cây
Gáo không chút bình yên với bọn “ tàn quân” Mỹ Ngụy.Chúng đã len lõi vào khu vực
họ Đạo và đã giết một số Bộ Đội ta trấn đóng quanh khu vực có nhiều giáo dân.
Nhưng Bộ Đội ta đã đẩy lui gây tổn thất nhiều nhân mạng cho bọn chúng.
Các anh, phải bình tỉnh hãy
tin vào Bộ đội và nhân dân ta.Nhiệm vụ nào Bộ đội ta cũng hoàn thành và khó
khăn nào Bộ đội ta cũng vượt qua. Chúng tôi được biết,một số anh khi đi lao động
đã có sự liên hệ gắn chặt với những phần tử phản động còn ẩn nấp bên ngoài. Các
anh cần phải thật thà khai báo rõ cho chúng tôi. Đây là những bản kê khai bổ
sung các anh Đội trưởng hãy lấy phân phát đến với nhau,khai rõ ràng và kiểm điểm
vào đấy rồi nộp cho chúng tôi.Nhớ là phải thành khẩn khai báo nhé.
Bọn họ quay trở lại “ khung”
. Người tù chúng tôi, mỗi người đều nhận tờ giấy khai báo. Nhìn qua, những điều
quy định và những câu hỏi có thể suy luận ra nhiều vấn đề sâu sắc với óc bình
thường của con người có thể hiều được tại sao bọn họ làm công tác này.
Một ngày, chỉ quần quật
trong láng trại với đầu óc căng thẳng với tờ khai báo. Những người tù của chúng
tôi,phải lao động vất vã cho ngày hôm sau bù lại ngày hôm trước.Như thường nhật,
mỗi khi lao động về tù nhân chúng tôi được lùa vào trại và cổng trại được kéo
kín bởi một lớp dây kẻm gai và bên trên lu cốt lúc nào cũng có một tên vệ binh
lăm le khẩu AK như chĩa vào đoàn người tù chúng tôi niên viễn.
Trời vào hè ở Long Giao mặt
trời lặn trể,không khí “ ca cóng” ( nấu
nướng theo kiểu Guizgo ) trong trại còn có thời gian để khoản đãi những người
tù đói như chúng tôi. Có anh nấu cũ mì hoặc những thứ thực phẩm gì nhặt hái được
trong rừng ngày lao động. Chủ yếu là để chống đói mà thôi.
Vài tuần trôi qua, sau vụ việc
khai báo bất thường. Tối ngày G, nhiều chiếc xe Thiết Giáp M113 của Quân Lực
VNCH cũ xuất hiện và chạy xung quanh trại D12 đèn rọi khắp quanh rào trại (có lẽ
những chiếc xe Tank này là chiến lợi phẩm của bọn chúng sau ngày ăn cướp miền
nam và giờ lấy sử dụng lại) .Sự xuất hiện của những chiếc xe tăng này trong
vòng hai giờ đồng hố. Những người tù chúng tôi thấy rõ nồn nột,nhưng chẳng ai
dám xì xầm gì!
Một tuần sau đó,khi đoàn người
tù lao động mới vừa về vào trong lòng trại. Một con mễnh ( người phía Bắc gọi
con mang) cũng đã lục tục vào trong trại mà không một ai hay biết. Cho đến khi
giờ “ ca cóng” bắt đầu mọi người mới phát giác ra cậu “ mễnh” khảnh kia chạy
tung tăng khắp láng và xuống đùa giởn với các thần táo nhà bếp.
Dĩ nhiên là số phận của con
vật này sẽ ra sao? Chắc mọi người đều biết.Đám vệ binh vào trong trại dùng dây
vòng bắt con mễnh và đem ra ngoài “ khung” làm thịt. Nhiều người tù lớn tuổi
“đoán già đoán non” cho rằng con mễnh vào làng là có điềm xui xẻo,như nhậy con
mễnh vào trại D12 chắc có điền quái gỡ gì đây?
Ờ, mà ai ăn thịt của nó còn xui dữ hơn nữa.Có anh nói nếu nói như vậy
thì bọn tù của chúng mình không có xui mà bọn họ ở ngoài “ khung” mới xui ra bở.
Việc tin vào chữ hên xui, được
nghe qua rất nhiều khi tôi còn ấu thơ. Và việc con mang (mễnh) chạy vào làng
quê tôi hồi trước năm 1975 cũng có.Tôi nhớ một chiều thôn ấp của tôi ùn ùn người và chó đã rượt bắt được con mễnh đang
chạy vào làng. Nhiều thanh niên vạm vỡ với nhiều con chó Phú Quốc ( chó chuyên
săn bắt). Sau nhiều giờ truy bắt họ đã bắt được con mang (mễnh) không lớn lắm. Họ trói con vật và để ngay trước
sân nhà anh ruột của tôi là một Trung đội trưởng Nghĩa Quân ở Ấp.
Ba tháng sau, một đêm trăng
nhà của anh ruột tôi bị Việt cộng bao vây, bọn họ bắn vào nhà tan tành nhưng
anh không trúng đạn chết ngay ở nhà mà
anh chết ơ một nơi khác.
Tôi nhớ không lầm, ngày ấy
vào ngày rằm tháng tám Trung Thu năm 1965 trăng trên trời lung linh chiếu tỏa
khắp trong một thôn ấp miền quê thanh tịnh. Ánh sáng soi đến độ mọi vật dấu vết
to nhỏ đều có thể thấy được. Khoảng 12 giờ đêm,tôi vẫn còn học bài chuẩn bị cho
buổi học ngày sau. Tôi nghe tiếng động,
quanh nhà anh tôi ( vì ở miền quê gia
đình anh chị em ai có chồng vợ, cha mẹ cho ra riêng cũng cất nhà ở lòng vòng
xung quanh gần phần đất của cha mẹ. Nhà anh tôi cách nhà Mẹ tôi có một dãy chuối
và dừa).Tôi gọi mẹ tôi và nói: hôm nay, nhà anh Năm có tiếng ồn ào khác lạ,
mà không có tiếng máy truyền tin kêu vang như mỗi ngày. Vả lại, hai con ngỗng
nhà của anh ấy sao hôm nay bổng kêu to. Mẹ tôi bảo tôi, con chạy qua bên ấy coi
xem sao! Tôi xếp vở lại và đi qua nhà anh ấy. Khi tôi mới đến dãy chuối, tôi thấy
một tên Việt cộng đội cái mũ tai bèo mặc quần cụt trên tay lăm le khẩu súng và
lớn tiếng đuổi tôi “ thằng nhỏ mầy vào
nhà không tao bắn mày”. Tôi bèn phải lùi lại vào nhà . Tôi nói với mọi người
trong gia đình là Viet cộng đã bao vây nhà anh Năm để bắt anh. Mọi người trong
nhà chia nhau ẩn nấp nhưng vẫn theo dõi về phía nhà anh tôi. Một loạt đạn bắn
ra tiếng nổ như đinh óc, tôi không biết là của loại súng gì? Tôi nhìn thấy, Anh
Hai Suỗng (một đồng đội của anh tôi) từ
nhà của anh chạy đến nhà anh tôi, trên tay cầm cây súng carbine M1. Anh kêu tên
anh tôi, nhưng sau đó thì ngưng. Nhìn qua khe cửa tôi thấy chú Hai Thông Sự ( chức vụ theo đạo Cao Đài) ở đối diện nhà mẹ của tôi bò ra ngoài hàng rào cho anh
Hai Suỗng biết Việt Cộng đã bao vây nhà anh tôi. ( Tôi nghĩ, nếu không có chú Hai cho biết thì anh Hai Suỗng cũng đã bị
bắn bởi tên Viet cộng ở dãy chuối nhà mẹ tôi). Tiếng súng nổ xa và thưa dần.
Lính Nghĩa Quân từ Quận,Xã kéo đến Ấp Hiệp Thạnh nơi nhà của anh tôi, cũng là
nơi bao nhiêu năm trời anh tôi đã chiến đấu, ngăn chặn sự tiếp tế lương thực của
bọn Viet gian cho Viet cộng cùng với sự bảo tồn hệ thống Ấp Chiến Lược quanh
làng. Anh tôi đã hy sinh tại nhà người bạn cũng là người đồng đội với anh. Tôi
và Mẹ cùng đứa em Út cùng bà con hàng xóm đưa xác anh về nhà. Vết thương làm
anh không còn tồn tại trên thế gian nữa do viên đạn CKC xuyên thủng màn tang ( theo giám định sau cái chết của Chính quyền
VNCH).
Đám tang anh của tôi làm
theo lễ nghi của người tín hữu Cao Đài, nhưng chính quyền thời VNCH lúc ấy đã
cũng truy điệu theo truyền thống của một quân nhân. Anh tôi đã được những người
đồng đội đưa tiễn với nhiều loạt súng đưa hồn tận nghĩa trang và dĩ nhiên đã được
phủ cờ vàng ba sọc đỏ Việt Nam Cộng Hòa.
Qua sự hy sinh của anh tôi.
Cơ quan An Ninh Quân Đội Tỉnh Tây Ninh đã vào cuộc. Bằng sự chuyên nghiệp họ đã
tìm phăng manh mối của bọn nằm vùng. Họ đã bắt được hầu hết các viên chức Xã , Ấp
có liên quan đến sự việc.Một ông Phó Xã trưởng, ông Trưởng Ấp , ông Phó Trưởng Ấp
và một Nghĩa Quân viên đã bị truy tố trước pháp luật. Tên anh của tôi được
chính quyền thời đó tuyên dương và đặt tên cho một con đường trong Thôn Ấp.
Vài năm sau,khi tôi trưởng
thành, nếu ai có nhắc đến cái chết của anh, tôi thường lân la và tìm hiểu sự việc
để truy tìm nguyên nhân hơn. Dĩ nhiên có nhiều nguồn tin, không đúng 100%,
nhưng nó cũng tạo sự hữu ích trên con đường tìm biết.
Những người bạn cùng chiến đấu
với anh tôi cùng thời thì cho rằng sự lõng lẽo của tổ chức Nghĩa Quân trong những
năm đầu khi thành lập ( chuyễn từ Dân Vệ
qua).Tôi cho đó chỉ là một phần tương đối của hiện tượng trong việc đi tìm
nguyên nhân về cái chết của một quân nhân.Thực chất cái chết của anh tôi đã tạo
một sự kiện cho một chuỗi sinh hoạt có tính “ lính” và “dân”. Ai cũng có thể biết Việt cộng gian trá và xảo
quyệt. Thế nhưng thế hệ này đến thế hệ khác đều mắc phải bởi tính không cảnh
giác nên đã bị Việt cộng len lõi xâm nhập trong tổ chức và khuynh đảo.
Lùi lại thời điểm trước khi
xảy ra cái chết của anh tôi. Thời điểm đó,người lính Nghĩa Quân cải tổ từ Dân Vệ
qua, đôi khi có những “ thanh niên chiến đấu” , nên việc gia nhập của họ về mặt
“ lý lịch “ ngành an ninh còn sơ hở, bởi phần lớn những thanh niên gia nhập vào
Dân Vệ - Nghĩa Quân sau này đều sống và lớn lên ở địa phương. Về mặt “ nổi” thực tế mọi người ai cũng đều minh xác nên được tin tưởng nhiều. Cho nên,nếu người
nào họ quyết tâm phục vụ lý tưởng bảo vệ xóm thôn của họ thì thật sự họ trở nên
những con người đầy quả cảm và cương quyết. Và theo suy nghĩ này thì cũng có những
sự kiện ngược lại mà đầu mối là do Việt cộng móc nối dụ dỗ đưa đến sự phá hoại.
Về An ninh, nhất về mặt
trang bị ý thức tình báo cho một quân nhân
còn quá kém chưa đi sâu vào lòng của mỗi quân nhân ( đặc biệt những người lính Nghĩa Quân và Dân Vệ vì nhiệm vụ của người
lính Nghĩa Quân không giống như người lính các binh chủng của quân lực VNCH.
Người lính Nghĩa Quân, họ vừa là một quân nhân tác chiến để bảo vệ làng thôn, họ
còn là một người lính tâm lý chiến, và cũng vừa là một “ tình báo viên”….)
Do vậy, tính chất của họ không chỉ đơn thuần là một chiến sĩ giết giặc mà là một
quân nhân đa năng.
Lòng vòng, trở lại ý nghĩa
tìm nguyên nhân.Những yếu tố khách quan,chủ quan đều được cân nhắc, và về sau
được mọi người đồng chung lý giải.Đó là yếu tố trực tiếp đưa đến sự hy sinh của anh tôi và cũng là nguyên nhân tiên quyết.Do
sự yếu kém về mặt tổ chức và sự trang bị ý thức tình báo cho lực lượng Dân Vệ - Nghĩa Quân lúc cải tổ.
Trung đội Nghĩa Quân Ấp của
anh tôi phụ trách một tuyến dọc dài giáp ranh với những Ấp khác trong một khu vực
rộng lớn của một xã chứa 8 Ấp. Địa bàn Ấp của Trung Đội Nghĩa Quân của anh tiếp
cận với ngõ ra vào tiếp tế lương thực cho bọn Việt cộng ở vùng sâu.Vào thời kỳ
chương trình thực hiện Ấp Chiến Lược. Bọn du kích Việt cộng bị động và đưa đến
giai đoạn đói cực kỳ bởi các cửa ngõ ở các đầu Ấp Chiến Lược đều có Lính Nghĩa
Quân và Dân Vệ canh gác. Trung Đội Nghĩa Quân của anh tôi đã làm việc này hữu
hiệu. Vì thế bọn Việt cộng rất oán ghét và tìm cách triệt hạ.
Tôi không biết ở mỗi nơi tổ
chức Lực lượng Nghĩa Quân ra sao, nhưng
tôi biết ở xã Hiệp Ninh nơi quê hương của tôi có một Trung đội Nghĩa Quân ở Xã
và mỗi Ấp đều có một Trung đội nữa. Vào thời điểm này,những người lính Nghĩa
Quân ở Ấp thường hay tập họp tại một vị trí cố định nào đó rồi nhận sự chỉ thị
từ trên ( cấp Xã hay Quận) để đi hành
quân. Lính Nghĩa Quân ấp Hiệp Thạnh hay tập họp tại nhà anh của tôi và cũng
chính sự tập họp cố định này mà đã là một môi trường tốt cho bọn Việt cộng nằm
vùng theo dõi dưới dạng “ tình báo nhân dân”. Hơn thế nữa,sau mỗi lần đi hành
quân hay đi “ ba trui” sau đêm khuya mọi người lính đều về nhà với gia đình,vợ
con, bởi vì không có đồn bót để vào trú ngụ. Chính sự việc lâu ngày trở nên
quán tính nên Việt cộng mới điều nghiên và bao vây ám sát và bắn giết từng người.
Việc hy sinh của anh tôi cũng đã lọt trong tầm ngắm của Việt cộng qua thời gian
dài điều nghiên nên bọn chúng đã hành sự có kết quả cho bọn họ.
Câu chuyện về cái chết của anh
tôi sau ba tháng khi con mang ( mễnh ) chạy vào làng,như tôi đã trình tiết. Còn
việc tin vào hay không tùy theo đức tin của mỗi người.
Trở lại việc con mang ( mễnh
) vào trại, mọi người tù chúng tôi phần lớn cho rằng bọn cán bộ ngoài “ khung”
sẽ lãnh hâu quả sau khi ăn thịt con mang này. Sự việc xui xẻo xảy ra cho bọn
cán bộ khung ở một dạng khác. Có lẽ vì những người tù nhân của chúng tôi không
biết nhiều hơn về bọn họ. Lại nữa vì là những tin đồn truyền khẩu ( nhưng trong giới hạn) nên khó tưởng tượng.
Sau thời điểm con mang chạy
vào trại. Những người tù của chúng tôi nghe tin đồn thổi rằng hai vệ binh ở trại
D12 bắn với nhau vì giành giựt gái một chết và một bị thương nặng trong một
quán cà phê trên đường vào xã Cẩm Đường. Anh vệ binh chết tên H người còn lại
tên T. Một việc khác, là việc tên thiếu úy cán bộ chấp pháp bị một vệ binh người
miền Nam bắn gãy chân sau việc cải vã nhau về món tiền không biết nguồn gốc.
Đối với người tù ( cải tạo)
chúng tôi muốn được yên thân,nhưng đối với Việt cộng họ không để cho chúng tôi
được một phút nào bình yên. Họ phỉnh gạt lừa đảo, hứa hẹn và luôn khủng bố …
cho nên những người tù chỉ có một suy nghĩ duy nhất là phải vượt thoát nếu có thể.
Chuyện anh Dương Phục thoát
khỏi conex trong thời gian 9 ngày bị giam giữ, bị còng chân, đánh đập tàn nhẫn
nhiều lần chết đi sống lại của bọn quỹ dữ
gọi là quản giáo và cuối cùng anh đã đi đến bến bờ tự do đã lan truyền trong cộng
đồng tù nhân chính trị của chúng tôi mặc dù tin rỉ tai tương đối dè dặt. Nhưng
đó là một ánh sáng, đã soi qua con đường hầm nhò và trong sự ý niệm thế nào về
con người tù nhân cộng sản phải làm.
Chi tiết về việc vượt thoát
của anh Dương Phục còn nhiều tình tiết hấp dẫn, vào thời điểm đó những người tù
của chúng tôi duy diễn theo tính cá nhân, nhưng cuối cùng vẫn đồng nghĩ anh
Dương Phục chắc là con của Chúa nên được nhiều Linh mục và giáo dân che chở
trong lúc vượt thoát. Một đặc điểm mà cũng là nguyên nhân chính để anh thoát tù
ngục là phần lớn do sự thông minh , sáng suốt của người vợ anh là chị Thủy. Người
đã phối trí cho cuộc đào thoát của anh.Nhưng làm thế nào anh rời khỏi conex
trong lúc anh đang bị còng? Những người tù chúng tôi phải thắc mắc lâu dài vào
những năm sau đó. Và bây giờ, yếu tố then chốt đó đã được giải rõ qua quyển hồi
ký vượt thoát của anh.
Tôi biết anh Dương Phục một
vài lần khi đội tù lao động của chúng tôi cùng đi lao động với đội của anh trên
cánh đồng Cẩm Mỹ. Tôi nhớ rõ lắm , dương như anh ở trại D14. Trại tù này cách
trại tù D12 của tôi không xa nên chúng
có thể dùng mắt thấy được sinh hoạt tổng diện mỗi bên.
Như nói trên, sự đào thoát của
anh Dương Phục thời điểm đó ít nhiều làm cho những người tù của chúng tôi có một
sự trăn trở ý thức rõ rệt. Cho nên sau này cũng có nhiều cuộc “ trốn trại” tiếp diễn xảy ra ngay vào lúc
đang lao động ngoài nương rẫy.Có người thoát và cũng có người bị bắt lại và
thân thể cũng chẳng còn nguyên với sự hành hạ của bọn vệ binh và quản giáo.
Đầu năm 1979, hàng tuần tôi
không còn đi nhận hàng thực phẩm từ những nhà thầu cung cấp do những chiếc xe
hơi chạy bằng than mang đến nữa. Tôi được “ biên chế” ra đội lao động trở lại.
Hàng ngày đội tù của chúng tôi phải quần quật dưới cái nắng tháng giêng của
vùng đất đỏ Cẩm Mỹ - Cẩm Đường. Chúng tôi trồng hàng chục mẫu khoai mì,khi
chúng tôi đói lại không có khoai mì để ăn. Thay vào đó chúng tôi phải ăn bo bo
và bắp.
Một lần,anh đội trưởng HKL
phân bố anh D anh N và tôi đi vác cây mì ở nhà người dân.Theo giữ chúng tôi là
một anh vệ binh trẻ, khi vào nhà nơi lấy cây mì anh gặp cô con gái của ông chủ
nhà anh mãi mê tán tỉnh cho nên ba anh em chúng tôi sinh tình bàn với nhau về “ kế hoạch vượt thoát”. Anh N
là lớn tuổi nhất và cho biết nhiều về tin tức bên ngoài . Anh quả quyết rằng hiện
vẫn còn có những người anh em Chiến sĩ VNCH vẫn còn ẩn núp trong những khu vực
rừng già giáp với biên giới Campuchia và Viet Nam cũng như Lào, mà bọn Việt cộng
gọi là “ tàn quân”.Nếu chúng ta vượt thoát được sẽ gia nhập với những chiến sĩ
rất dễ dàng , bởi vì chúng mình là tù vượt trại.Bằng chứng là việc nổ súng
đánh nhau với bọn Viet cộng vừa qua ở
xóm đạo Cây Gõ mà hầu như những người tù ai ai cũng biết. Anh D thì nói về thực
trạng cán bộ ăn hối lộ và có sự việc làm giấy tờ giả để mỗi khi mỗi tù nhân vượt
ngục trót lọt sẽ được vượt biên ra nước ngoài. Và anh khẳng định thân nhân của
anh biết về vấn đề này.Riêng tôi là người nhỏ tuổi so với hai anh N và D. Tôi
không biết nhiều về những sự kiện, nhưng mỗi lần đi lao động tôi thường hay
quan sát cách thức gìn giữ tù nhân của bọn vệ binh, đặc biệt và những con đường
có thể an toàn khi vượt thoát. Trong khi ba anh em chúng tôi có thời gian trao
đổi ý tưởng, thình lình tên vệ binh trẻ xuất hiện hắn đưa đôi mắt liếc dọc liếc
xuôi và hỏi lớn: các anh làm gì chùm nhum như thế. Tại sao không đi vác cây mì
mà ngồi lì thế ? Chúng tôi nói với hắn chúng tôi đã làm và mới vừa nghỉ. Hắn
quát to, các anh đứng dậy đi làm nha, mỗi anh từ giờ đến lúc ra về mỗi người phải
hai bó lớn nhé. Quát xong hắn lại đi thẳng vào nhà nơi có cô gái có lẽ đang chờ
hắn.
Hết ngày lao động, người tù
chúng tôi về trại. Ngày hôm sau, thay vì đi lao động vác cây mì trồng như thường
lệ. Ba chúng tôi bị “ biên chế” làm việc khuân vác gạch ngoài trại do nhà thầu
cung cấp bằng xe nơi một bãi đất trống cách trại khoảng 200 mét. Mục đích của họ
là xây dựng một lò bánh mì ở ngoài “ khung”.
Chính nhờ làm công việc này,
nên chúng tôi tiếp xúc được với người dân bên ngoài. Chúng tôi không bỏ lỡ cơ hội
khai thác thêm nhiều tin cung cấp cho ý tưởng “ trôn trại” của chúng tôi.Nhiều
nhân công bốc xếp gạch, họ là người của địa phương nên họ rất am tường về tình
hình ở nơi vùng họ cư ngụ, đồng thời họ cũng biết rất nhiều về những tin tức
chiến sự. Họ cho biết, cách vài tháng lính đồ bông của VNCH đã vào vùng Cây Gõ
và đã giao tranh với bộ đội trấn giữ ở đây họ đã bắn chết rất nhiều bộ đội. Họ
cũng hy sinh một ít người.Một nhân công nói: chú tôi trước là trung úy đại đội
trưởng lính Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Long Khánh, sau ngày 30 tháng tư năm
1975, ông không về nhà và gia đình xem như mất tích đến giờ. Nhưng thời gian
sau đó, gia đình biết chú vẫn còn sống và vẫn còn chiến đấu ở một nơi nào trong
địa bàn các tỉnh miền Đông.
Lần sau cùng,công tác chuyển
gạch vào “ khung”, theo giữ toán tù chúng tôi là một anh vệ binh người miền Bắc
tên M trông anh có vẽ cởi mở và có ý muốn tìm hiểu về Saigon. Anh N đã tiếp cận
nói chuyện với anh về cuộc sống người dân ở Saigon trước năm 1975.Anh dường như
đã hiểu phần nào và sau đó cho biết rằng anh cũng có người bà con di cư năm
1954 hiện nay người thân của anh ta đang ở Hố Nai.
Cũng lần chuyển gạch này,
anh D không biết bằng cách nào đã móc nối được với anh bộ đội này. Anh ta cho
biết anh cũng không còn được cấp trên của anh đưa đi giữ toán chuyển gạch vào “ khung “ nữa vì yêu cầu
đã xong. Anh sẽ nhận công tác mới làm vệ binh cho toán chặt cây rừng làm củi.
Các anh nào vào đội chặt cây sẽ gặp anh ta.
Cũng thật may ba anh em
chúng tôi hết chuyển gạch được “ biên chế” vào toán chặt cây làm củi. Toán
này,lấy một phần ba số người của một đội ước lượng khoảng 15 người. Theo canh
chừng toán gồm một anh cán bộ “ khung “ và một vệ binh. Ba ngày đầu cho công
tác chặt cây, chúng tôi không thấy anh vệ binh người Bắc tên M đi canh giữ mà lại là những vệ binh khác. Anh
D nôn nóng vì có lẽ anh muốn gặp anh vệ binh M để tìm hiểu thêm hoặc khai thác
một số tin tức hoặc nhờ vã hay lợi dụng những gì mà chính anh mới hiểu, còn anh
N và tôi không hề biết.
Đến ngày thứ năm trong lao động
chặt cây rừng, chúng tôi đã nhận ra anh khi anh cùng một cán bộ trong khung nhận
toán chặt cây chúng tôi và hướng dẫn chúng tôi vào cánh rừng phía Đông Cù Bị, Cẩm
Mỹ. Trong lúc giải lao anh D trong nhóm của chúng tôi đã tiếp xúc được anh vệ
binh M. Ngồi gần tôi và anh N thấy được anh D và anh vệ binh M hút thuốc và
trao đổi qua lại . Tôi nghĩ là anh D đã Thật sự móc nối được anh vệ binh M bằng
đường đút lót tiền bạc và hứa hẹn khi anh chàng vệ binh có dịp về Saigon thì
nên ghé qua gia đình của anh D để nhận những gì hai người đã hứa với nhau. Anh
D đã cho tôi và anh N biết giờ L đêm P vệ binh M có ca gác trên lô cốt trước cổng
ra vào trại. Và máy phát điện ở ngoài “khung” bị hỏng chưa có thợ sửa chửa. Cả
3 chúng tôi nắm bắt tin tức này và phác họa kế hoạch hành động vượt thoát. Thực
ra chúng tôi đã chuẩn bị từ thời gian
trước khi còn ở trong toán vác cây khoai mì. Đêm ngày L đã đến . Đúng giờ P chúng
tôi thực hiện kế hoạch như đã định. Trên vọng gác trước cổng trại, chúng tôi
nghe tiếng xì xào của vệ binh đổi ca gác, anh D dùng tay quẹt lỗ mũi như ra dấu
cho chúng tôi tiến hành. Chúng tôi đồng loạt quan sát những anh em cùng tù để cảnh
giác và lần lượt từng người ra nơi hố xí (
trại này hố xí nằm trong vòng rào của trại)
giả vờ như đi đại tiện để đánh lừa anh em tù cùng láng.Lợi dụng không có
đèn hàng rào,anh D đã dùng kềm cắt kẻm gai cắt gọn 3 vòng kẻm ( kềm cắt kẻm đã
được dấu mấy ngày trước nơi vị trí ấn định) và anh dùng tay vạch lổ chui ra
ngoài tiếp theo anh N và sau cùng là tôi. Khi ra khỏi vòng rào. Chúng tôi núp
dưới một mương rồi bò ra ngoài đám cây lau sậy và chúng tôi đi thẳng về hướng
Cù Bị - Cẩm Mỹ . Khi đến vườn cao su Cẩm Mỹ chúng tôi ước lượng khoảng 4 giờ
sáng vì nghe được tiếng gà gáy từ những ấp kinh tế xa vọng về . Lúc này, chúng
tôi cũng không nghe động binh gì từ trại giam. Ba chúng tôi đi dọc theo đường
mòn mà trước đây chúng tôi đã có nhiều lần đi vác củi cho trại.Đến gần sáng
chúng tôi chưa ra khỏi khu vực Cẩm Mỹ. Chúng tôi thấy một vài người dân ( chắc là ở địa phương) lên rẫy sớm. Sợ
bị phát giác chúng tôi nằm rạp xuống dưới con rạch không có nước để tránh họ.Khi
họ đi qua chúng tôi bắt đầu đi tiếp và tìm đường lên miệt Cây Gáo. Trời đã sáng
hẳn, chúng tôi nghe ồn ào tiếng xe máy quyện theo gió từ xa đồng thời cùng tiếng
súng nổ râm ran từ hướng trại giam. Chúng tôi dự đoán rằng họ đã phát giác sự
trốn trại của chúng tôi. Theo sự chỉ dẫn của anh lơ xe (như sự tiếp xúc mỗi lần vác gạch trước đây) thì chúng tôi chỉ còn
có nửa cây số nữa là chúng tôi đến được vùng Cây Gáo mà nơi đó sẽ còn có những
anh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hiện còn đang chiến đấu. Chúng tôi cố gắng đi
nhanh hướng đến mục tiêu. Tiếng súng mỗi lúc mỗi gần và tiếng la ó của vệ binh
cũng như tiếng hỏi thăm người dân của nhóm vệ binh truy tìm ngày càng gần. Ba
chúng tôi quyết tìm chổ ẩn náo.Chúng tôi lao vào trong nương rẩy của người dân
đã bỏ hoang không biết từ lúc nào nhưng cây cối mọc um tùm cao khỏi đầu trông
giống như một cụm rừng chồi. Và mỗi người mỗi nơi để lánh nạn.Tôi chọn một nơi
có hốc đá và dây mây rừng phủ trên chằng chịt người khó trông thấy. Còn hai anh
D và N không biết tản nơi nào, nhưng tôi đoán là cũng đâu đấy gần đó.
Trời đã xế chiều, tôi không
nghe tiếng không nghe tiếng ồn ào của nhóm vệ binh truy tìm. Tôi tự suy nghĩ có
lẽ họ không truy tìm nữa là vì họ nghĩ chúng tôi đã thoát ra khỏi địa phận quản
lý của họ rồi. Bây giờ họ chỉ đón bắt chúng tôi từ các chốt gác trên tuyến đường
xe về thị xã học thành phố. Họ sẽ ra sức chặn nơi những chốt chặn.
Nằm trong bụi rậm, con sâu
mây bò đầy đôi khi leo lên cả người, nhưng ít khi dám nhúc nhích sợ gây tiếng động.
Nhìn ra ngoài thấy một số nương dân phần lớn là gái đang đi tìm một loại dây gì
tôi không thể được biết, họ nói nói cười cười trông rất tự nhiên. Có những cô
gái chỉ độ tuổi mới 15 tay cầm một cái dao dài chặt một số dây leo gần bên chổ
tôi trú ẩn. Tôi sợ các cô gái ấy thấy tôi nên cố thu người trọn trong dám dây
mây mặc cho mấy con sâu tự do bám trên đầu trên cổ.
Trời đã gần chiều, đám các
cô gái không còn lẩn quẩn quanh chổ tôi trú ẩn, tôi vươn mình dậy để gãy ngứa
và gạt mấy con sâu ra khỏi người. Tôi nghe tiếng động đậy từ một cụm mây gần
đó, tôi vươn mắt nhìn qua thấy anh D đang lửng thửng đi về hướng tôi đang trú.
Tôi cố quan sát một lần nữa thật kỹ vì sợ rằng mắt của mình bị phải quáng gà bởi
sự lo sợ. Thật rồi, đúng anh D. Tôi lao ra và gọi nhẹ tên anh. Anh mừng và hỏi anh N đâu, tôi trả lời không biết.Anh
D và tôi đi một đoạn trong đám rừng chồi đến một cụm cây leo trên mõm đá thấy
có tiếng động. Hai chúng tôi nằm sụp xuống quan sát chúng tôi thấy một người
trung niên từ từ bước ra từ đám dây leo phủ kín. Nhìn thật kỷ đúng là anh
N.Chúng tôi tiến đến và cả ba họp lại tính kế hoạch là chờ đêm về sẽ đi tiếp đến
vùng Cây Gáo như dự tính.
Đêm về,chúng tôi tôi bắt đầu
định hướng và thẳng tiến đến vùng Cây Gáo. Chúng tôi dự kiến sẽ đến đó trước 9
giờ đêm bởi từ chổ chúng tôi trú ẩn đến đó ước lượng chỉ còn nửa cây số nếu là
ban ngày đi khoảng nửa tiếng đồng hồ, ban đêm thì mất thời gian hơn. Nương theo
đường mòn ba chúng tôi tiến bước. Trời về đêm không khí rừng nghe u tịch hơn
đôi khi cũng nghe rợn người vì sợ thú rừng.Chúng tôi đi khá nhanh bởi những
vùng này đều có mặt chúng tôi mỗi khi lao động chặt củi đốn tre, có thể nói là
gần như quen thuộc đường sá.
Chúng tôi đi gần một tiếng đồng
hồ và theo lời anh lơ xe hướng dẫn lúc trước khi đến ngã ba đường mòn rẽ trái sẽ
vào được đám rừng cây chằng chịt mà người dân địa phương gọi là rừng cấm.Y theo
lời hướng dẫn, chúng chúng đã đến được ngã ba đường mòn chỉ cần rẽ trái sẽ vào
được trong khu rừng âm u gọi là “ rừng cấm” như mục đích của chúng tôi mong muốn.
Thế nhưng chúng tôi mới vừa tới đến ngã ba chúng tôi nghe tiếng động xì xào.
Chúng tôi vội nằm mọp xuống dùng ánh sáng nền đất để quan sát thì thấy rõ ràng
là một chiếc xe tăng M113 của Việt cộng đang nằm chình ình vào lối rẽ trái vô rừng
cấm. Chúng tôi chưa kịp đứng lên để thoát thì hai tên Việt cộng cầm 2 khẩu AK
47 dí vào đầu 3 chúng tôi và đem về chiếc xe tăng. Bọn chúng cho vào mỗi người
chúng tôi vài bá súng đau thấu xương tủy.Chúng khai thác biết chúng tôi là tù
trốn trại nên đã gởi chúng tôi về lại trại.
Khi bị giải giao về trại mỗi
anh em chúng tôi bị hành hạ không thương tiếc. Ba chúng tôi được nhốt trong 3
chiếc conex khác nhau và bị đánh liên tục. Họ xích chúng tôi với những sợi dây
cáp to trong thành conex và đem ra tra khảo thường xuyên. Trong thời gian hơn nửa
tháng bị nhốt trong conex và hành hạ thân xác . Chúng tôi chỉ nghĩ chết còn sướng
hơn.Mỗi ngày đều 2 cử đánh đập với những tên cán bộ khác nhau. Kết quả anh D đã
bị gảy một chân trái. Anh N xệ một cánh tay và một phần đầu bị dập nghe nói sau
này anh điên luôn và đã chết trong một trại giam khác. Còn tôi dập cả vai lưng
phía sau và nát một phần bên mắt phải.
Ba chúng tôi không còn gặp lại,
sau khi ra khỏi conex. Tôi bị họ đưa đến trại giam Z30 D Hàm Tân Thuận Hải.Nghe
nói anh D thì bị đưa ra Bắc còn anh N bị đưa về trại giam Chí Hòa.
Năm 1989, tôi có gặp lại anh
anh D ngay ở vườn cây trước Sở Ngoại Vụ thành phố Saigon,bởi vì khi được tin
Hoa Kỳ và chính quyền Cộng Sản Viet Nam đã thỏa thuận cho tù nhân “ cải tạo” được
định cư tại Mỹ theo diện nhân đạo. Các người tù chính trị thường tụ tập để trao
biết tin tức của chương trình nên tôi có dịp gặp lại anh . Tôi cũng được biết
anh cùng gia đình đã qua định cư ở Hoa Kỳ rồi, nhưng hiện nay tôi không liên lạc
được và biết anh ở tiểu bang nào.
Duy Văn Hà Đình Huy
Thứ Tư, 29 tháng 5, 2019
Thứ Tư, 27 tháng 2, 2019
Thứ Tư, 7 tháng 11, 2018
Thứ Ba, 6 tháng 11, 2018
Thứ Hai, 5 tháng 11, 2018
Thứ Tư, 31 tháng 10, 2018
Chủ Nhật, 28 tháng 10, 2018
Thứ Tư, 24 tháng 10, 2018
Thứ Sáu, 8 tháng 6, 2018
Thứ Ba, 24 tháng 4, 2018
Thứ Năm, 12 tháng 4, 2018
Thứ Tư, 6 tháng 12, 2017
Thứ Năm, 30 tháng 11, 2017
Thứ Năm, 26 tháng 10, 2017
Thứ Tư, 25 tháng 10, 2017
Thứ Hai, 23 tháng 10, 2017
Thứ Sáu, 20 tháng 10, 2017
Thứ Ba, 17 tháng 10, 2017
Thứ Hai, 21 tháng 8, 2017
Thứ Bảy, 22 tháng 7, 2017
Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016
Thứ Tư, 14 tháng 12, 2016
Thứ Năm, 30 tháng 6, 2016
Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016
Thứ Hai, 20 tháng 6, 2016
Chủ Nhật, 19 tháng 6, 2016
Thứ Hai, 23 tháng 5, 2016
Thứ Tư, 18 tháng 5, 2016
NGƯỜI VIỆT NAM HÈN HẠ
Mời bạn đọc một bài viết
rất can đảm của một phụ nữ, đang sống tại Việt Nam.
Cách đây đã lâu, tôi đọc “người trung quốc xấu xí” của ông Bá Dương (Ðài Loan), chưa bàn tới hay/dở/ đúng/ sai của nội dung cuốn sách gây tranh cãi ầm ĩ đó, tôi chỉ nhớ lại cảm giác giật mình của tôi khi đó. Khi tôi đọc lướt qua vài trang sách Tôi như vỡ ra một niềm cảm khái mà từ lâu nó cứ âm ỉ trong lòng. Tôi biết thế giới đã từng có những cuốn như “Người Mỹ xấu xí,” ”Người Nhật Bản xấu xí,” rồi mới đến cuốn của ông Bá Dương. Tôi vừa đọc, vừa tự hỏi, tại sao người việt nam chúng ta không có một cuốn như thế này? Tại sao chúng ta cứ tự ru ngủ mình trong cái điệp khúc dân tộc việt nam là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” …nhìn đâu cũng thấy anh hùng, liệt sĩ… Nếu thực sự chúng ta có những tố chất đó, nếu thực sự chúng ta là những người như thế, sao kết quả chúng ta hiện nay lại là một đất nước như thế này?
Cách đây đã lâu, tôi đọc “người trung quốc xấu xí” của ông Bá Dương (Ðài Loan), chưa bàn tới hay/dở/ đúng/ sai của nội dung cuốn sách gây tranh cãi ầm ĩ đó, tôi chỉ nhớ lại cảm giác giật mình của tôi khi đó. Khi tôi đọc lướt qua vài trang sách Tôi như vỡ ra một niềm cảm khái mà từ lâu nó cứ âm ỉ trong lòng. Tôi biết thế giới đã từng có những cuốn như “Người Mỹ xấu xí,” ”Người Nhật Bản xấu xí,” rồi mới đến cuốn của ông Bá Dương. Tôi vừa đọc, vừa tự hỏi, tại sao người việt nam chúng ta không có một cuốn như thế này? Tại sao chúng ta cứ tự ru ngủ mình trong cái điệp khúc dân tộc việt nam là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” …nhìn đâu cũng thấy anh hùng, liệt sĩ… Nếu thực sự chúng ta có những tố chất đó, nếu thực sự chúng ta là những người như thế, sao kết quả chúng ta hiện nay lại là một đất nước như thế này?
Một đất nước mà hơn phân
nửa các cô cậu tú tài đi thi cử nhân khoe rằng mình có quay cóp một cách hoàn
toàn không có chút tự trọng (đó là được hỏi, còn báo chí không cần hỏi vẫn có
những hình ảnh phao thi trắng cả trường thi! Vậy thì thi cái gì? Thi xem ai
quay cóp giỏi hơn chăng?). Trong đó còn có cả những đứa trẻ bảo rằng năm nay
không thi thì năm sau thi, chứ làm bài mà phỉ báng “thần tượng Su-Ju” của nó là
nó không thi! Mặc cho bao nhiêu tâm sức, kỳ vọng của gia đình, nhà trường, xã
hội – những nền tảng đã cho nó có được cuộc sống và kiến thức để mà tiếp cận
được với Su-Ju danh giá của nó. Thế mà nó vẫn được rất nhiều đứa trẻ khác tung
hô! Chính là những đứa trẻ sẵn lòng khóc lóc, quỳ gối, hôn ghế… trước thần
tượng. Một dân tộc gì đã sản sinh và nuôi dạy ra một thế hệ kế thừa như thế?
Con nít nó học cha anh
mà ra, chúng ta đã nuôi dạy trẻ con thành ra như thế sao? Ðừng ai đổ thừa cho
ai. Vì trường học đổ cho cha mẹ, cha mẹ đổ cho xã hội, xã hội đổ cho cha mẹ…
nhà trường. Tóm lại, đừng đổ thừa nữa. Hãy biết hốt về mình đi! Tất cả chúng ta
là người lớn, chúng ta đều có lỗi.
Bởi người lớn có hơn gì?
Một xã hội mà người ta đang sẵn lòng thuốc chết nhau đi từng ngày bởi tiền bạc
bất kể lương tri. Làm quan thì chỉ lo vơ vét, tham nhũng, quỳ gối trước ngoại
bang để duy trì sự thống trị trước nhân dân.
Gần 40 năm thống nhất,
việt nam có hơn gì thời chiến ngoài đống xe máy chạy đầy đường… trong túi ai
cũng có một cái điện thoại di động? Dù nhà ở không có, đất đai không có, bảo
hiểm không có, tương lai cho con cái không có,… nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi
ngày trong quán nhậu. Người ta được ru giấc suốt 40 năm bằng niềm ước mơ cháy
bỏng “cơm no, áo ấm.” Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn thì hãy làm
giàu, làm giàu, làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời bình.” Cứt! Tôi ỉa vào
cái khẩu hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó! Tiếng súng không còn nổ
ngoài đường. Một cuộc chiến khác đậm chất mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc còn
phải chào thua nhà cầm quyền việt nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của họ
với dân mình. Cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là kiểm duyệt,
là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lý do, là bị bịt
miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp
ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ đất. Trong khi họ giữ đất cho
ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ gì khi quay lưng lại với dân tộc mình?
Ðơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ,
thể chế đó sẽ cho nó công việc ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó
nhắm mắt làm theo, coi nhân dân là cỏ rác, cũng vì lợi ích cá nhân … gia đình
nó- nếu nó có nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu còn cái lý tưởng cao đẹp nào có thể
tin vào lúc này? Ðừng nói với tôi là “lý tưởng Hồ Chí Minh” hay “lý tưởng cộng
sản” nhé! Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ đoàn thử xem, nó nói có trôi chảy
không? Tôi đã thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên thuyên toàn những
điều mà trường học gọi là “phản động.”
Cuộc chiến này được
khoác lên chiếc áo bảo vệ hòa bình, tự do, hạnh phúc. Còn bên trong là để bảo
vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người gắn kết với nhau bằng những chiếc
răng cùng gặm vào xương máu người nghèo, người thất học, người bán buôn lương
thiện hàng ngày. Những người mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời phật đã cho chúng con
một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT
thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào
toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ
độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết,…
Thế là cái dân tộc đầy
sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để
lo cho cái thân mình. Họ còn biết làm gì nữa?
Và khi họ chăm chắm vào
tiền và sự yên ổn cho mình, họ để mặc cho một bọn ác khác lên ngôi, bọn này là
sản phẩm của công thức:Bên trên, chúng nhìn thấy cách hành xử của một chính
quyền côn đồ, có tiền là ra luật + Bên cạnh, chúng nhìn thấy những con người
thờ ơ với người khác, chỉ còn biết nghĩ tới mình + Bên dưới, chúng nhận ra một
đám người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn
cúi bên trên, tránh né bên cạnh… ức hiếp bên dưới.
Sao mà tôi sợ bọn người
đó như thế?!
Bọn đó tập trung vào các
cơ quan công quyền, làm quản lý, làm công an, làm công chức,… làm “đầy tớ” của
nhân dân!
Bọn công bộc đó đã cùng
nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sài Gòn ngồi vạ vật dầm mưa dãi nắng
suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu oan.
Bọn công bộc đó đã đẩy 2
mẹ con người phụ nữ nọ phải dùng đến cách phản kháng cuối cùng mà họ có là khỏa
thân ở giữa đường để đòi lại công bằng. Vì trong tay họ còn có gì để chống lại
chúng ngoài phẩm cách của người đàn bà vốn được coi là thiêng liêng? Họ dùng
đến cách đó, và cuối cùng bị chúng lôi kéo dọc đường và nỗi oan của họ có ai
thèm đoái tới?
Bọn công bộc đó đã đẩy
đến đỉnh điểm hôm nay, một người mẹ uất ức tự thiêu trước cổng 1 cơ quan công
quyền vì không còn sức để chịu đựng chúng…
Tôi sợ bọn chúng vì bọn
chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết
mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát, thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn
hảo để tạo ra một nền kinh tế xã hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong
dối trá và danh lợi. Ðáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ
hội – thu vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con
thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng.
Bọn này tiếp tay cho bọn
con buôn cũng lưu manh không kém. Thế là chúng ta ăn thức ăn có độc mỗi ngày,
con cháu chúng ta uống sữa độc mỗi ngày, chúng ta đi trên những con đường hiểm
họa mỗi ngày, chúng ta tiêu dùng những gì chúng mang tới, chúng ban phát, với
giá mà chúng ấn định, với mức thuế mà chúng muốn,… không còn một lựa chọn nào
khác. Không biết làm gì khác, không có phản ứng gì khác! Vì chúng ta lương
thiện.
Kẻ không lương thiện có
những phản ứng tàn độc hơn, hoặc biến hẳn sang một trạng thái sống khác, như
một sự kết tinh cao cấp hơn của một xã hội đương nhiên sẽ sản sinh ra nó.
Tôi nghĩ đến bọn này khi
tôi đọc tin về tên bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm,
hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.
Tôi đọc tin ông bà chủ
đánh trẻ làm công đến thương tật.
Tôi đọc tin một gã thanh
niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc chỉ vì một chiếc xe máy và
chút ít tài sản.
Tôi đọc tin bọn chủ… lơ
xe vứt xác hành khách bị lèn chết giữa đường mà cả xe không ai phản ứng.
Tôi đọc tin nữ sinh phải
ngủ với thầy giáo để được điểm tốt.
Tôi đọc tin người đi
đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra,
xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi
không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà
cướp!… Còn rất nhiều tin.
Một dân tộc gì mà độc ác
và hèn hạ thế? Dĩ nhiên không chỉ có mình tôi biết đau đớn vì những điều đó.
Chúng ta có cả một thứ
to tát mà tôi tạm gọi là “nền văn chương than khóc.”
Trong những tác phẩm thi
ca xuất bản từ khoảng 20 năm trở lại đây, tôi không dám nói mình đọc nhiều hay
nghe nhiều, nhưng tôi cố gắng đọc, nghe, cố gắng tìm tòi, cố gắng tìm kiếm một
tác phẩm nó xứng đáng làm cho tôi thấy dân tộc việt nam của tôi thực sự là “cần
cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…”
một cách đúng nghĩa. Vì hãy quên những hình tượng cách mạng cao đẹp trong văn
chương hay cả âm nhạc của miền Bắc thời chiến tranh đi! Ðó không phải là văn
chương, nó là thuốc pháo, tìm cách dẫn dắt, thôi thúc người ta chém giết… chết.
Không hơn không kém.
Các bạn có tìm kiếm
giống tôi không? Và các bạn có tìm thấy không? Hay đầy rẫy xung quanh chúng ta
chỉ có 3 loại:
– Loại mờ nhạt, rẻ tiền,
xúc cảm vu vơ, vụn vặt, vô thưởng vô phạt.
– Loại có trăn trở, có
suy tư, nhưng toàn đau đáu những nồi niềm xưa cũ, tương lai chả biết phải vứt
đi đâu và vứt cho ai?
– Loại mạnh mẽ hơn, trực
diện hơn, nhưng tầm vóc tác phẩm chỉ ở mức gẩy lên 1 tiếng đàn, rồi thôi!
Tinh thần chúng ta đang
được nuôi dưỡng bằng những thứ chỉ đến mức đó thôi.
Còn những thứ hổ lốn lai
căng phát trên TV, bán ngoài sạp báo mỗi ngày, tôi không dám kể tới, vì đó là
nỗi kinh hoàng mà nếu phân tích thêm, chỉ muốn vứt cái đầu mình đi, không cần
suy nghĩ nữa làm gì cho mệt óc.
Vậy cái gì đã gây nên
nông nỗi? Tôi không muốn tạo ra sự hiểu lầm là cái gì cũng do lỗi cộng sản.
Nhiều người rất cực
đoan, nói ra cái gì sai, họ cũng đổ vấy hết cho cộng sản. Nhưng cộng sản tệ đến
thế mà cai trị được chúng ta đến ngày giờ này, thì chúng ta cũng tệ không kém!
Nghe nói cụ Tản Ðà có
câu:
Cũng bởi thằng dân ngu
quá lợn!
Cho nên quân ấy mới làm quan.
Những gì độc ác, bẩn thỉu của cộng sản, những người khác đã nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ mình cũng không cần nhắc lại.
Cho nên quân ấy mới làm quan.
Những gì độc ác, bẩn thỉu của cộng sản, những người khác đã nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ mình cũng không cần nhắc lại.
Tôi chỉ nghĩ đến một
điều, cái gì đã làm cộng sản tồn tại lâu như thế?
Ngoài sự cấu kết quyền
lực-quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản đã làm gì để chúng ta thành ra
một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm
nay? Ngoài sự mafia, côn đồ, trấn áp bằng sợ hãi, giáo dục một cách ngu dân ra,
chúng còn làm gì nữa?
Ai từng học luật đều
biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh được, thì hành vi con người sẽ
phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức. Pháp luật không theo con người lên
giường, vào toa-lét, xuống bếp. Nhưng đạo đức theo ta khắp nơi, tận trong ngõ
ngách tâm hồn. Pháp luật cũng không ép tạo ra đạo đức. Chính sự vô thần vô
thánh, không thừa nhận đức tin mà cộng sản triệt để nhồi nhét từ khi họ nắm
được dân tộc này đã hun đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người
ta ăn, đút sữa độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ, …Vì những
người này họ không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp
luật. Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không sợ quả
báo, không sợ bị đày xuống địa ngục,… thì họ còn sợ gì nữa? Việc gì mà họ không
dám làm?
Còn những kẻ yếu không
có niềm tin là có Phật, có Chúa, có Thánh Allah luôn soi sáng mình, giúp đỡ
mình, ngự trị trong mình, thì họ còn biết dựa vào đâu để tìm lại niềm lạc quan
mà sống? Mà tranh đấu để tự tìm lấy giá trị sống thiêng liêng mà đấng tạo hóa
đã ban cho mỗi chúng ta?
Tôi có cảm giác như mình
đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang vu, hỗn loạn về vật chất –
nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như thế không?
Giữa sự hỗn loạn và
hoang vu ấy, cái ác sẽ luôn luôn ngự trị, kẻ có sức mạnh sẽ luôn trấn áp chúng
ta. Chúng ta – những kẻ được đến trường nhưng thật ra thất học, những kẻ nghĩ
mình lương thiện nhưng thật ra không có lương tri, những kẻ đủ ăn mặc nhưng
thật sự chưa hề nếm mùi vị hạnh phúc, những kẻ đọc sách – nghe nhạc mỗi ngày
nhưng không biết đó chẳng phải là nghệ thuật đích thực – một nền nghệ thuật có
thể soi sáng tâm hồn ta chứ không phải ru ta ngủ trong quên lãng. Những kẻ
hoang mang không biết tin ai, không hiểu nên làm gì cho đúng.
Lúc đó, lúc hỗn loạn và
hoang vu đó, anh cộng sản xuất hiện và nói: Ðời chúng mày chỉ cần độc lập-tự
do-hạnh phúc.
Chúng ta tưởng thế là
hay ho lắm! Dù nền độc lập này có mang lại tự do không? Có hạnh phúc không? Hay
chúng ta đang cúi đầu nô dịch cho ai đây? Chúng ta thực chất đang sống thế nào
đây? Và đang để lại cho con cháu chúng ta di sản gì?
Chúng ta đeo bám theo
họ, quên cả chính bản thân mình, một con người, cần phải sống sao cho đúng
nghĩa, đúng phẩm cách, hành động đúng theo những gì mà một con người có lương
tri cần phải hành động.
Bạn có đang tự hào vì
mình là người việt nam không? Hỡi những con người ấu trĩ mang trong mình một
đinh ninh sắt đá là tôi rất tự hào vì tôi là người việt nam “cần cù, nhân hậu,
thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” đã từng đấu
tranh thắng Mỹ, các bạn không thấy điều đó nó hết thời rồi à? Ta thắng Mỹ để có
một xã hội phồn vinh, một dân tộc được tôn trọng. Chứ còn thắng Tàu, thắng
Pháp, thắng Mỹ, thắng khắp nơi… Mà ngày nay những kẻ ta từng thắng đó, nó coi
chúng ta còn không hơn con chó thì cái chiến thắng đó nhắc tới làm chi cho thêm
nhục?
Mặt phải, chúng ta ra rả
trên báo mỗi ngày là “Mỹ đã đến biển Ðông,” “bà Hillary dọa TQ không nên gây
hấn,”… để mong lòng dân yên ổn. Mặt trái, chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ
những lớp cán bộ đã từng được Tàu đào tạo để cám ơn họ đã “dạy dỗ” cả đám chóp
bu việt nam. “Ðĩ” chưa từng thấy! Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính
quyền việt nam hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót.
Lá mặt lá trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh?
Còn dân việt nam thì
sao? Dám cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào xâm lược việt nam nữa
không? Mà cầm súng để làm gì? Kết quả của gần 40 năm độc lập, ai cũng thấy cả
rồi, không cần nói nữa.
Và cả bọn hèn hạ chúng
ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử.
Bổ sung: Sau khi bài này
được upload, tôi nhận được khá nhiều comments và cả message. Không biết phải
đánh giá như thế nào về những comments hỏi ngược lại tôi với một thái độ khinh
khỉnh, qua nhiều câu chữ khác nhau, nhưng đại khái cùng 1ý: “Vậy bạn có hèn
không?” He he… Tôi chỉ muốn nhấn mạnh lại 1 điều, suốt cả bài viết, tôi không
gọi những người hèn là “các bạn,” tôi gọi là “chúng ta.” Như vậy có dễ hiểu hơn
chưa nhỉ?
Tôi không thích tự nhận
hay gán ghép. Tôi chỉ nói lên những suy nghĩ của mình, còn đánh giá tôi hay
đánh giá chính mình, các bạn cứ tự làm lấy. Thiết nghĩ, đâu cần phải tranh luận
chuyện ai hèn, ai không hèn ở đây! Biết hay không biết mới là quan trọng. Mà
cái sự khổ sở để đi từ cái “không biết/chưa biết” đến cái “biết” nó sẽ là một
quá trình gian nan mà mỗi người phải tự thân trải nghiệm. Không ai giúp ai được
đâu. Và tôi hiểu, cái “biết” của tôi nó cũng chỉ giới hạn trong tầm nhân sinh
quan nhỏ bé của cá nhân tôi mà thôi. Còn bạn, hãy tiếp tục giữ lấy niềm lạc
quan của bạn. Con cừu vẫn có được niềm hạnh phúc mỗi ngày được gặm cỏ non, uống
nước suối, ngắm bầu trời xanh, chờ đến ngày xẻ thịt mà! Ðúng không? Hạnh phúc
vẫn khắp quanh ta! Những con cừu không biết “tự sướng,” không biết “thủ dâm
tinh thần” thì quả thực là ngu còn hơn… cừu! He he…
Bổ sung tiếp: “….Ông bảo
xã hội nào cũng có những điều bẩn thỉu. Tôi công nhận điều ấy. Nhưng xã hội bẩn
thỉu nhất ông có biết là xã hội nào không? Là xã hội mà thằng ăn cắp không cho
rằng nó phạm pháp, nó đang làm điều xấu, người lương thiện thì run sợ, thằng
bất lương lại coi việc nó làm là bình thường và kẻ vô liêm sỉ như ông thì vênh
vang tự đắc: ta là số đông. Chính là xã hội này đây….” (trích comment của
khongnoibiet).
Tự Do Phải Tranh Ðấu
Bằng Xương Máu Và Cả Tính Mạng.
Nguồn: Blog Nguyễn Xuân
Diện
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)