Thứ Tư, 4 tháng 3, 2020

TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?


ĐỖ DUY NGỌC

Đặng Lê Nguyên Vũ, Chủ tịch của tập đoàn cà phê Trung Nguyên, khi ra toà để ly dị vợ và phân chia tài sản có nói một câu mà sau đó nhiều người hay nhắc lại: TIỀN NHIỀU ĐỂ LÀM GÌ?. 
Ừ! Tiền nhiều để làm gì khi gia đình tan vỡ, vợ tố chồng giữa toà án, chồng đay nghiến vợ trên truyền thông. Nhiều tiền chưa hẳn là hạnh phúc. Đúng là khi nghèo khổ, cơ cực, người ta mong ước có tiền, nhưng đến một lúc nào đó, tiền không phải là tất cả.

Khi dịch Corona tấn công người dân Vũ Hán, thành phố bị phong toả, rất nhiều người nhiễm bệnh và cũng rất nhiều người đã chết. Tôi vừa xem một clip trên báo, ghi lại hàng ngàn tiếng thét, tiếng la đau đớn và tuyệt vọng trong đêm xuất phát từ những chung cư, cao ốc ở thành phố Vũ Hán. Sau gần một tháng bị phong toả, người dân Vũ Hán đã quá sức chịu đựng và họ thét lên như để xả bớt stress. Trong tình cảnh này, tiền nhiều cũng chẳng làm gì. Do vậy đã có người từ trên toà nhà cao tầng rải tiền như mưa xuống đất. Đến lúc này họ thấm thía tiền nhiều để làm gì khi sinh mạng bị đe doạ, cuộc sống bị tù hãm, không mua được lương thực để sống tạm qua ngày.

Tình trạng này cũng giống ở thành phố Daegu, miền nam Hàn Quốc, nơi trở thành ổ dịch với mức độ lây nhiễm kỷ lục, chỉ đứng sau Trung Quốc. Cũng đã có người đứng trên lầu cao rải số tiền rất lớn xuống đất, giấy bạc bay trắng trời. Trong hoàn cảnh như thế, tiền không còn giá trị gì nữa.

Tôi có một người bạn rất giàu, giàu lắm. Anh ta suốt cuộc đời cặm cụi làm ăn, có cơ hội là không bao giờ bỏ sót. Lo làm giàu, anh quên luôn bản thân, kiếm thật nhiều tiền là niềm vui. Chưa kịp hưởng thụ cái tài sản khổng lồ anh kiếm được thì phát hiện ung thư thời kỳ cuối. Anh qua đời trong tiếc nuối. Sau đó, nhà anh người ta ở, tiền anh người ta xài, con anh người ta sai, vợ anh người ta lấy. Khốn khổ chưa!

Đôi khi câu nói Tiền nhiều để làm gì lại nhắc nhở chúng ta một thái độ sống. Phải nhớ Tiền không phải là mục đích lớn nhất của đời người, cái cần thiết chính là sự bình an trong cuộc sống, là sức khoẻ, là sự tự do, là hạnh phúc và hưởng được một cuộc sống đích thực. Đương nhiên không có tiền thì cũng khó sống, bị khinh khi, nhục mạ, bị thiếu thốn đủ điều. Nhưng nhớ rằng nó không phải là mục đích của cuộc đời. Người ta thường bảo rằng: Nói về tiền, con người có hai niềm bất hạnh, bất hạnh thứ nhất là sống mà không có tiền và bất hạnh thứ hai là chết mà còn nhiều tiền.

25.2.2020

ĐỖ DUY NGỌC

Thứ Sáu, 7 tháng 6, 2019

TRẠI LONG GIAO VÀ CUỘC TRỐN TRẠI BẤT THÀNH.



DUY VĂN  

Tôi không nhớ rõ ngày nào tôi bị chuyển từ trại tù số 20 Phú Quốc về trại giam Long Giao, nhưng tháng thì vào khoảng  tháng 6 của năm 1976.
Hàng trăm xe motolova do Trung Cộng sản xuất, chạy tọt vào chiếc duyên vận hạm HQ504 của Hải Quân VNCH (Việt cộng lấy làm chiến lợi phẩm sau ngày 30- 4 - 1975)  mới hải hành từ Phú Quốc về đậu tại Tân cảng (Newport) để bốc những người tù của chế độ cũ đưa về trại giam Long Giao. Tôi và 39 tù nhân khác bị đưa lên xe số 10.
Long giao là xã nhỏ  thuộc tỉnh Long Khánh, và trại giam Long Giao trước đây là căn cứ  của 1 trung đoàn  bộ binh thuộc sư đoàn 18 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Khoảng 2 giờ đồng hồ, xe dừng lại trên một bãi đất trống, đối diện là một trại giam có nhiều cốt gác và hàng rào kẻm gai chằng chịt. Hai tên vệ binh tay trái mang băng đỏ và tay phải thì lăm lăm khẩu AK báng xếp từ trên xe nhảy xuống đất hướng súng về phía người tù đang ngồi trên xe ra lệnh phải ngồi im, không được quyền xuống xe, nếu ai cải lịnh sẽ bị bắn bỏ. Vì di chuyển nhiều ngày bằng tàu, và nhiều giờ bằng xe, nên cơ thể của tôi không chịu nổi sự dồn nén, cơ quan bài tiết của tôi đã đòi hỏi sự thoát nước. Tôi định hỏi 2 tên vệ binh cho tôi xuống tiểu tiện. Khi tôi đến gần phía sau đuôi xe thì đồng lúc bửng xe cũng đã hạ để chuẩn bị cho người tù chúng tôi xuống xe vào trại. Tôi nhảy tọt xuống đất, tên vệ binh mặt rổ  chỉa mũi súng vào đầu tôi và bắt tôi ngồi xuống đất. Hắn ta quay báng súng đánh vào vai của tôi nhiều phát đau điếng người. Hắn quát : chưa có lệnh tôi sao anh nhảy xuống? Tôi trả lời tôi cần tiểu tiện, nên nhảy xuống hỏi anh .Tên vệ binh mặt rổ nói không tiểu tiện gì cả, mặt hắn ta cứ lầm lừ. 
Những  tù nhân trên xe được đưa vào trại, lúc đó khoảng 10 giờ đêm. Mọi người được nhóm cán bộ quản lý trại chỉ chổ ở. Riêng tôi, tên vệ binh mặt rổ giải giao cho một bộ đội tên là Thuyền, tên này mang quân hàm Trung úy. Tôi nói với tên Thuyền cho tôi được tiểu tiện tên Thuyền dẫn ra một nhà xí ngoài trời.Khi xong, tên này đem tôi nhốt vào một conex gần cạnh bờ rào và không quên nhắn nhũ : ngày mai tôi sẽ làm việc với anh về việc không tuân theo lệnh vệ binh. Ở trong conex, tôi ngủ thiếp lúc nào không biết.
Tháng sáu trời Long Giao nắng gắt, mắt nhìn vào những khoảng đất trống hay đường nhựa cảm tưởng như có hơi nóng bốc lên. Conex thường bằng sắt, nên rất hít chất nóng, nếu nhiệt độ bên ngoài khoảng 20 độ thì bên trong conex nhiêt độ có thể tăng lên gấp đôi.
Tôi bị nhốt trong conex đến trưa hôm sau, tên Thuyền đến mở cửa và dẫn tôi ra ban chỉ huy trại mà người tù chúng tôi thường gọi là “khung”. Ở đây tôi bắt phải viết bản kiểm điểm với một tên bộ đội gọi là cán bộ chấp pháp. Tên cán bộ chấp pháp này hỏi tôi lý do nào tôi nhảy xuống xe khi chưa có lệnh của vệ binh. Và hành động của tôi như thế có phải muốn trốn trại?  Tôi viết kiểm điểm cùng giống với lời khai là vì tôi rất mắc tiểu tiện nên phải nhảy xuống xin phép vệ binh, nhưng anh vệ binh đã nghĩ thế nào đó đã đánh tôi và bắt nhốt, giải giao đến khung.
Làm việc xong với tên cán bộ chấp pháp này, tôi được đưa về đội 4. Đội này do tên trung úy Tiêm làm đội trưởng , đội phó là tên thiếu úy Be. Về phần đại diện đội tù thì người tù  HKL đảm nhiệm để làm trung gian giữa cán bộ và tù nhân.  Đội 4 giống như các đội tù khác như đội 1, đội 2 và đội 3 cùng trại là: lao động khổ cực ngoài nương rẩy, chặt cây rừng làm củi đốt, trồng mì, phát hoang , hoặc dọn những bãi mìn còn sót lại của những đồn bót sau  chiến tranh.
Công việc đốn cây rừng và gỡ mìn là hai nhiệm vụ mà đội 4 thường làm. Một bửa nọ, tên Thiếu úy Be dẫn 10 người tù của đội 4 trong số đó có tôi. Mỗi tù nhân đi gỡ mìn được phát một bàn cào sắt giống như cào cỏ của Trư Bát Giới dùng làm vũ khí đánh yêu quái trong chuyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân, một tác giả là người Trung Quốc chuyên viết những truyện cổ có tính phiêu lưu . Nhưng cào cỏ của họ Trư có cán, còn bàn cào của những người tù gỡ mìn không có cán, mà được thay cán bằng một sợi dây điện hay dây nylon dùng cột võng trường sơn của mấy tên bộ đội miền Bắc. Mỗi người tù đi gỡ mìn cũng còn trang bị thêm một xẻn nhỏ dùng để đào lỗ ẩn thân.
Bãi mìn  đầu tiên toán tù mười người chúng tôi gỡ là một đồn của lính VNCH cách xã Cẩm Mỹ 1 cây số. Đồn nằm trên một vị trí gò đất cao nên mùa nắng đất rất cứng, khó cho việc đào hố ẩn thân. Nhưng để bảo toàn sinh mạng, người tù buộc phải đào được hố  sâu qua khỏi đầu.
Mười tù nhân chúng tôi ngồi thỏm trong hố cách nơi có mìn chừng khoảng mươi mét. Theo lệnh của tên thiếu úy Be, chúng tôi quăng những cào sắt có cột dây vào khu vực có mìn và kéo rà như vậy nhiều lần. Những quả mìn lộ thiên khi bị chạm vào cào sắt sẽ nổ làm đinh tai điếc óc, lắm lúc những người tù chúng tôi phải chết bởi miễn do những quả mìn nổ gây ra.
Một lần gỡ mìn ở Cẩm Đường toán tù gỡ mìn của chúng tôi mất mạng 2 người vì quả mìn cóc nổ tiếp cận. Anh T bị một miểng mìn xuyên qua lồng ngực, còn anh G thì bị vở vùng cổ và càm.
Mỗi lần đưa người tù đi gỡ mìn bọn họ đem theo rất nhiều vệ binh để canh chừng người tù. Họ đứng rất xa để quan sát và ra lệnh chứ không dám đứng gần.
Tên thiếu úy Be là người sắc tộc miền núi nên giọng nói rất khó nghe. Mỗi khi hắn ta truyền lệnh gì cả toán chú ý lắm mới hiểu  được nội dung hắn ta nói.
Có lần, hắn ta dẫn cả đội vào rừng chặt cây vác về làm nhà, cùng theo hắn có 4 vệ binh  hầu hết là người thiểu số miền Bắc. Hắn gọi đội trưởng HKL giao trách nhiệm để HKL truyền lại cho anh em tù hiểu mà làm theo. Cả đội tù chúng tôi nhìn thấy anh HKL cứ hỏi lại hắn ta nhiều lần, có lẽ vì anh đội trưởng không nghe nổi giọng nói của hắn nên yêu cầu hắn đến trước đội nói lớn cho anh em tù cùng nghe.
Hắn chỉ thị anh HKL : “ anh dãn dọi nên  khu rừng Com My  dón cây, vất về đại, để nàm nớp học nà náng. Mõi người như vọi nà hai cây có đường kánh nà  10 centimét.”. Đó là nguyên âm câu chỉ thị của hắn, mãi sau quen dần giọng nói của hắn những người tù chúng tôi mới hiểu hắn ta nói: “ anh dẫn đội lên khu rừng Cẩm Mỹ đốn cây, vác về trại , để làm lớp học và láng. Mỗi người như vậy là hai cây có đường kính là 10 centimét”. 
Giải mã xong cả đoàn  tù vào rừng. Trong chuyến đốn cây rừng này, tôi ngất xĩu bởi do một cây rừng dính vào dây leo phóng  mạnh đập vào lưng làm tôi té, đập đầu  vào một tảng đá cuội.  Ở trại D12 Long Giao, người tù vào rừng đốn cây, thường được phát một con dao dài trông giống như  một chiếc mã tấu, nhưng thô kệch hơn mã tấu. Cây dao này cũng do những người tù làm từ nguyên liệu là những cọc sắt “ấp chiến lược” nên độ bén không lâu như những chiếc dao làm bằng thép nung. Chặt vài ba nhát thì đã lục ngay, phải mài lại mới có thể dùng được nữa. Thế mà bọn cai tù đặt chỉ tiêu là phải chặt nhiều cây, thì mới gọi là lao động tốt. Có những bạn tù sau ngày đốn cây rừng hai bàn tay phồng dộp cả lên, mà không có thuốc chửa nên lâu ngày lở loét, nhiễm trùng nhiều người phải cắt bỏ bàn tay.
Vào năm 1978, cả nước đều đói, do việc cộng sản Việt Nam lấy lương thực đặc  biệt là gạo trả nợ chiến tranh cho quan thày Nga – Tàu, nên bọn cán bộ cai tù ra chỉ thị cho các tù nhân phải lao động cật lực hơn, tăng sản xuất. Người tù phải ăn độn bo bo , củ mì khô sắc lát hoặc bắp , nhưng các thứ ngũ cốc này cũng không đũ ăn. Tiêu chuẩn một phần ăn cho người tù tại trại D12 Long Giao là một chén bắp hột nhỏ, với một miếng cá khô chỉ bằng ngón tay trỏ của đứa bé 10 tuổi. Thế nhưng phải lao động nhọc nhằn theo chỉ tiêu của bọn cai tù đưa ra. Với tình trạng ăn uống thiếu thốn mà phải làm quá sức, nhiều tù nhân đã ngã bệnh, khi bệnh không có thuốc uống, chỉ uống lá cây rừng thay thuốc. Loại lá rừng thường được người tù dùng để chửa bá bệnh đó là lá mặt nhân và dây nhản lồng. Có những người tù chết vì kiệt sức thân xác của họ được cuộn vào manh chiếu hay đệm rách và rồi được đem chôn sơ sài ngoài một bãi đất hoang cách trại giam vài trăm mét. Những người tù bệnh kéo dài nhiều ngày, bọn cai tù cho bắt đưa lên khung cho y tá của họ khám lại, phần lớn đều bị cưởng bách lao động vài ngày sau đó, mặc dù còn bệnh.

Sau ba tháng áp dụng kế họach chỉ tiêu, tăng năng xuất, tù nhân bị bệnh quá nhiều mà hầu hết cùng một thứ bệnh là kiệt sức. Bọn cai tù mới cho viết thơ thông báo gia đình tù thăm nuôi. Lần đầu tiên được gia đình thăm nuôi và tiếp tế thực phẩm sau ba năm 4 tháng kể từ ngày tôi bị bắt vào tù. Gặp lại người thân tôi rất mừng, nhưng người thân và tôi cũng không trọn mừng sau bao ngày xa cách  vì không nói được gì. Bởi bọn cán bộ ngồi xồng xộc trước mặt để theo dõi từng cử chỉ của tù nhân và gia đình, lại nữa thời gian thăm nuôi thì quá ít ỏi.
Không đầy 5 phút, tôi phải chia tay với người thân, vào lại trại giam, trong khi người thân của tôi phải lặng lẽ ra về trong nỗi bùi ngùi.
Trong tình trạng đói khát trầm trọng, bọn cai tù buộc mỗi người tù phải tự túc trồng rau sắn để cải thiện đời sống. Những luống rau muống hoặc dền được người tù canh tác đầy trong khuôn viên trại giam, mùa khô trong trại chỉ có một cái giếng do tù nhân đào , không đủ nước để tắm giặt nói chi có nước để tưới rau, người tù phải dùng nước tiểu của minh để giải quyết tình trạng thiếu nước của rau. Rau trồng lớn, cán bộ phụ trách nhà bếp ( anh nuôi) vào thu gom và khen thưởng người tù nào có số rau đạt chỉ tiêu. Họ mở nhiều đợt thi đua dồn ép người tù phải làm, nếu nhiều lần thu họach không đạt chỉ tiêu thì phải làm tờ kiểm điểm. Tờ kiểm điểm phải nói rõ lý do nào mà không đạt chỉ tiêu. Sau việc viết tờ kiểm điểm, bọn cai tù đưa ra kiểm thảo và đấu tố. Nhiều tù nhân bị kỹ luật vì việc trồng rau không đũ chỉ tiêu như thế này.
 Cứ mỗi một tháng bọn cai tù bắt những tù nhân đem đồ đạc ra bày giữa sân để bọn chúng kiểm tra. Chúng không cho biết mục đích của sự kiểm tra, thế nhưng việc kiểm tra đồ đạc của người tù trong trại D12 thật khắc nghiệt. Họ tịch thu tất cả tiêu, ớt, thuốc tây, dao, kéo, gạo sấy, mì gói, tiền , lương thực khô, sách báo có chữ ngoại quốc, kinh điển, đặc biệt là thuốc trụ sinh.
Lần kiểm tra đồ đạc vào khoảng  tháng 12  năm 1978, để bọn cai tù bộ đội bàn giao tù nhân trại D12 cho bọn cai tù công an ( bò vàng) , tôi bị tên Thiếu úy Be tịch thu nguyên bộ sách English For Today của Lê Bá Kông và qui cho tôi tội còn ngưỡng vọng Mỹ, luyến  tiếc  cuộc đời  làm tay sai. Hắn bắt tôi viết kiểm điểm làm sáng tỏ sự việc này. Sau khi viết xong bản kiểm điểm, hắn tống giam tôi vào conex. Ở trong conex khoảng 2 giờ đồng hồ, tên trung úy Tiêm đội trưởng đội 4 cùng với anh HKL mở cửa conex thả tôi ra và cho biết nếu vi phạm một lần nữa sẽ bị nhốt biệt giam.
Trong trại giam D12 có 4 đội tù. Mỗi đội trực nhà bếp một tuần, nên anh đội trưởng phải cử người để canh chừng và đun lửa cho các chảo bắp nấu .Các đội khác cho người làm tốt được ban quản giáo khen ngợi, bởi lẽ khi bắp hột cho vào trong chảo nấu tất cả hạt bắp sẽ  nở to và sẽ đẩy bung nắp chảo lên. Cán bộ đến kiểm tra thấy vậy cho là tốt. Một hộm đến đội 4 của tôi và lại đúng vào ngày tôi trực bếp tên cán bộ hậu cần ( anh nuôi) đem bắp ra do , đong và đưa một ít vôi để pha vào trong chảo cho bắp mau nở . Xong việc tên cán bộ ra ngoài khung. Trong bếp còn lại anh Luông (hiện nay ở Oklahoma US) và tôi. Hai chúng tôi thay phiên nhau ngũ và canh 4 chảo bắp đến khuya các chảo bắp đã chín và các hạt bắp đã nở to đẩy nắp vun chảo lên khá cao. Hai chúng tôi đều an tâm định ngũ một giấc đến sáng bàn giao cho cán bộ “ khung”. Chắc sẽ được khen .Nhưng sáng ngày hôm sau hai chúng tôi không được khen mà ngược lại còn phải làm kiểm điểm, bởi do 4 chảo bắp không còn đẩy vun như lúc khuya.Tên cán bộ hậu cần nói: Với liều lượng vôi và hạt bắp như vậy, tôi tin các chảo bắp sẽ nở rang lên đầy cả vun và ta sẽ có đủ lương thực phát cho các anh cả ngày. Nhưng tôi thất vọng đối với hai anh. Hai anh phải giải thích rõ thế nào về sự giảm súc của các chảo bắp, nếu không tôi sẽ đề nghị nhốt hai anh.Tôi cứ giải thích lòng vòng để nó qua truông.Còn anh Luông cứ chối thẳng thừng là anh không biết vì về việc các chảo bắp bị tụt  giảm.Tên cán bộ hậu cần quay mũi dùi vào tôi mà tấn công liên tục . Hắn ta nói: anh Luông không biết còn tôi là thế nào? Tôi nói với anh ta rằng: có lẽ cán bộ đưa cho tôi loại bắp không nở tốt như các loại bắp anh đưa cho các đội khác. Tên cán bộ quả quyết rằng anh ta làm đúng và tôi là người sai.Cuối cùng tôi bị kiểm điểm và bị tống vào conex bởi một viên thiếu úy ban chấp pháp của trại. Vì anh ta đã có lời khai của một người bạn tù của tôi, ( tạm dấu tên) cho rằng tôi đã mở các chảo bắp cho anh em tù tự động xuống  lấy bắp nên các chảo bắp mới bị tụt giảm như vậy.Thực vậy, khi anh Luông ngũ còn lại mình tôi. Tôi thấy anh em tù của mình đói quá xuống nhà bếp xin ăn tôi làm lơ cho lấy, nhiều bạn tù lấy nên các chảo bắp đã giảm xuống tới mức như vậy. Người bạn tù của tôi lấy nhiều bắp hôm đó là anh “ Cóc Ma ru” tức trung úy cảnh sát đặc biệt Nguyễn Hữu Ngọc (đơn vị bót Bà Hòa Chợ Lớn)  Anh Ngọc có một đặc tính rất điềm đạm, nhưng rất là ngang tàng, thuộc loại chịu chơi thời thượng, nên ít khi làm phiền hà bạn bè, nhưng tôi không biết vì sau đêm hôm đó anh ta lấy bắp nhiều quá. Tôi biết anh dùng lon guigoz xúc vào chảo bắp đến 5- 6 lượt. Có lẽ anh có kế hoạch riêng vì cho anh đối với cuộc sống đầy tù tội khốn khổ này.
Sau khi, trở về đội lao động từ conex thời gian cũng chiếm mất một tuần. Tôi không được làm việc theo lịch luân phiên ở nhà bếp nữa. Tới phiên tôi anh đội trưởng HKL theo lệnh của cán bộ cắt người khác thay tôi. Tôi chỉ còn được phép theo cán bộ hậu cần và các anh em đi khuân gạo và thức ăn từ nhà thầu đem đến từ những “chiếc xe đò lỡ”chạy bằng than đá. Đây là dịp tôi đã tiếp xúc được với các anh tài xế và lơ xe trong lúc hành sự. Và nhờ nhiều lần đi lấy hàng định kỳ như vậy qua trao đổi  tôi hiểu rõ một phần nào cuộc sống của dân chúng bên ngoài sau 4 năm nằm trong trại tù bịt kín.
Đêm,  ngày, tháng…. năm 1978. Đã đến 2 giờ sáng tôi vẫn chưa ngũ, người bạn tù nằm cùng bên vẫn thao thức, nhưng chúng tôi không thể nói chuyện qua lại được vì sợ làm phiền những bạn tù khác, hoặc cũng phải dè dặt với những người đồng cảnh không tốt với mình. Ba giờ sáng,chúng tôi cùng nghe tiếng súng nổ lớn và giòn gần như đâu đây quanh trại. Tôi và người bạn tù định chồm dậy để xác định hướng súng nổ , nhưng không dám. Chúng tôi nhìn nhau, và cố định hướng. Thật ra một ảo giác nào hoặc là do tiếng gió thổi đồn mạnh về hướng trại của chúng tôi, chứ tiếng nổ không gần như chúng tôi nghĩ. Tiếng súng nổ gần sáng mỗi lúc lại tăng lên và im sau khoảng 5 giờ sáng.
Sáng hôm sau, sớm hơn giờ tập họp đi lao động. Chúng tôi thấy bộ đội ngoài “khung” và quản giáo, chấp pháp đã tràn đầy vào khuôn viên trại. Các vệ binh lăm le trên tay những khẩu súng AK và CKC có vẽ như muốn đè bẹp hoặc uy hiếp tinh thần những người tù nhân chúng tôi về một việc gì đó mới vừa xảy ra.
Tên Thân trưởng trại cho các đội tù ngồi tập họp trước sân các láng. Với điếu thuốc “ Điện Biên”  ông ta xoe đi xoe lại trên môi và nói: “ Hôm nay, chúng tôi tập họp các anh lại và hôm nay các anh không phải đi lao động. Mà hôm nay,các anh sinh hoạt trong trại với chúng tôi. Chúng ta cần tìm hiểu về đường lối “ cài đặt “ của bọn CIA Mỹ và Ngụy.Như các anh đã biết “ bọn phản động Mỹ - Ngụy, cho đến nay vẫn còn tạo sự nguy hiểm cho nhân dân và đồng bào ta. Đã hơn 4 năm kể từ Đảng và nhân dân ta “ giải phóng” thống nhất đất nước. Bọn phản động vẫn không để cho chúng ta bình yên. Tối đêm qua,nhân dân họ Đạo miền cây Gáo không chút bình yên với bọn “ tàn quân” Mỹ Ngụy.Chúng đã len lõi vào khu vực họ Đạo và đã giết một số Bộ Đội ta trấn đóng quanh khu vực có nhiều giáo dân. Nhưng Bộ Đội ta đã đẩy lui gây tổn thất nhiều nhân mạng cho bọn chúng.
Các anh, phải bình tỉnh hãy tin vào Bộ đội và nhân dân ta.Nhiệm vụ nào Bộ đội ta cũng hoàn thành và khó khăn nào Bộ đội ta cũng vượt qua. Chúng tôi được biết,một số anh khi đi lao động đã có sự liên hệ gắn chặt với những phần tử phản động còn ẩn nấp bên ngoài. Các anh cần phải thật thà khai báo rõ cho chúng tôi. Đây là những bản kê khai bổ sung các anh Đội trưởng hãy lấy phân phát đến với nhau,khai rõ ràng và kiểm điểm vào đấy rồi nộp cho chúng tôi.Nhớ là phải thành khẩn khai báo nhé.
Bọn họ quay trở lại “ khung” . Người tù chúng tôi, mỗi người đều nhận tờ giấy khai báo. Nhìn qua, những điều quy định và những câu hỏi có thể suy luận ra nhiều vấn đề sâu sắc với óc bình thường của con người có thể hiều được tại sao bọn họ làm công tác này.  
Một ngày, chỉ quần quật trong láng trại với đầu óc căng thẳng với tờ khai báo. Những người tù của chúng tôi,phải lao động vất vã cho ngày hôm sau bù lại ngày hôm trước.Như thường nhật, mỗi khi lao động về tù nhân chúng tôi được lùa vào trại và cổng trại được kéo kín bởi một lớp dây kẻm gai và bên trên lu cốt lúc nào cũng có một tên vệ binh lăm le khẩu AK như chĩa vào đoàn người tù chúng tôi niên viễn.
Trời vào hè ở Long Giao mặt trời lặn trể,không khí “ ca cóng”  ( nấu nướng theo kiểu Guizgo ) trong trại còn có thời gian để khoản đãi những người tù đói như chúng tôi. Có anh nấu cũ mì hoặc những thứ thực phẩm gì nhặt hái được trong rừng ngày lao động. Chủ yếu là để chống đói mà thôi.
Vài tuần trôi qua, sau vụ việc khai báo bất thường. Tối ngày G, nhiều chiếc xe Thiết Giáp M113 của Quân Lực VNCH cũ xuất hiện và chạy xung quanh trại D12 đèn rọi khắp quanh rào trại (có lẽ những chiếc xe Tank này là chiến lợi phẩm của bọn chúng sau ngày ăn cướp miền nam và giờ lấy sử dụng lại) .Sự xuất hiện của những chiếc xe tăng này trong vòng hai giờ đồng hố. Những người tù chúng tôi thấy rõ nồn nột,nhưng chẳng ai dám xì xầm gì!
Một tuần sau đó,khi đoàn người tù lao động mới vừa về vào trong lòng trại. Một con mễnh ( người phía Bắc gọi con mang) cũng đã lục tục vào trong trại mà không một ai hay biết. Cho đến khi giờ “ ca cóng” bắt đầu mọi người mới phát giác ra cậu “ mễnh” khảnh kia chạy tung tăng khắp láng và xuống đùa giởn với các thần táo nhà bếp.
Dĩ nhiên là số phận của con vật này sẽ ra sao? Chắc mọi người đều biết.Đám vệ binh vào trong trại dùng dây vòng bắt con mễnh và đem ra ngoài “ khung” làm thịt. Nhiều người tù lớn tuổi “đoán già đoán non” cho rằng con mễnh vào làng là có điềm xui xẻo,như nhậy con mễnh vào trại D12 chắc có điền quái gỡ gì đây?  Ờ, mà ai ăn thịt của nó còn xui dữ hơn nữa.Có anh nói nếu nói như vậy thì bọn tù của chúng mình không có xui mà bọn họ ở ngoài “ khung” mới xui ra bở.
Việc tin vào chữ hên xui, được nghe qua rất nhiều khi tôi còn ấu thơ. Và việc con mang (mễnh) chạy vào làng quê tôi hồi trước năm 1975 cũng có.Tôi nhớ một chiều thôn ấp của tôi ùn ùn  người và chó đã rượt bắt được con mễnh đang chạy vào làng. Nhiều thanh niên vạm vỡ với nhiều con chó Phú Quốc ( chó chuyên săn bắt). Sau nhiều giờ truy bắt họ đã bắt được con mang (mễnh)  không lớn lắm. Họ trói con vật và để ngay trước sân nhà anh ruột của tôi là một Trung đội trưởng Nghĩa Quân ở Ấp.
Ba tháng sau, một đêm trăng nhà của anh ruột tôi bị Việt cộng bao vây, bọn họ bắn vào nhà tan tành nhưng anh không trúng đạn chết ngay ở  nhà mà anh chết ơ một nơi khác.
Tôi nhớ không lầm, ngày ấy vào ngày rằm tháng tám Trung Thu năm 1965 trăng trên trời lung linh chiếu tỏa khắp trong một thôn ấp miền quê thanh tịnh. Ánh sáng soi đến độ mọi vật dấu vết to nhỏ đều có thể thấy được. Khoảng 12 giờ đêm,tôi vẫn còn học bài chuẩn bị cho buổi học  ngày sau. Tôi nghe tiếng động, quanh nhà anh tôi ( vì ở miền quê gia đình anh chị em ai có chồng vợ, cha mẹ cho ra riêng cũng cất nhà ở lòng vòng xung quanh gần phần đất của cha mẹ. Nhà anh tôi cách nhà Mẹ tôi có một dãy chuối và dừa).Tôi gọi mẹ tôi và nói: hôm nay, nhà anh Năm có tiếng ồn ào khác lạ, mà không có tiếng máy truyền tin kêu vang như mỗi ngày. Vả lại, hai con ngỗng nhà của anh ấy sao hôm nay bổng kêu to. Mẹ tôi bảo tôi, con chạy qua bên ấy coi xem sao! Tôi xếp vở lại và đi qua nhà anh ấy. Khi tôi mới đến dãy chuối, tôi thấy một tên Việt cộng đội cái mũ tai bèo mặc quần cụt trên tay lăm le khẩu súng và lớn tiếng đuổi tôi “ thằng nhỏ mầy vào nhà không tao bắn mày”. Tôi bèn phải lùi lại vào nhà . Tôi nói với mọi người trong gia đình là Viet cộng đã bao vây nhà anh Năm để bắt anh. Mọi người trong nhà chia nhau ẩn nấp nhưng vẫn theo dõi về phía nhà anh tôi. Một loạt đạn bắn ra tiếng nổ như đinh óc, tôi không biết là của loại súng gì? Tôi nhìn thấy, Anh Hai Suỗng (một đồng đội của anh tôi) từ nhà của anh chạy đến nhà anh tôi, trên tay cầm cây súng carbine M1. Anh kêu tên anh tôi, nhưng sau đó thì ngưng. Nhìn qua khe cửa tôi thấy chú Hai Thông Sự ( chức vụ theo đạo Cao Đài) ở đối diện  nhà mẹ của tôi bò ra ngoài hàng rào cho anh Hai Suỗng biết Việt Cộng đã bao vây nhà anh tôi. ( Tôi nghĩ, nếu không có chú Hai cho biết thì anh Hai Suỗng cũng đã bị bắn bởi tên Viet cộng ở dãy chuối nhà mẹ tôi). Tiếng súng nổ xa và thưa dần. Lính Nghĩa Quân từ Quận,Xã kéo đến Ấp Hiệp Thạnh nơi nhà của anh tôi, cũng là nơi bao nhiêu năm trời anh tôi đã chiến đấu, ngăn chặn sự tiếp tế lương thực của bọn Viet gian cho Viet cộng cùng với sự bảo tồn hệ thống Ấp Chiến Lược quanh làng. Anh tôi đã hy sinh tại nhà người bạn cũng là người đồng đội với anh. Tôi và Mẹ cùng đứa em Út cùng bà con hàng xóm đưa xác anh về nhà. Vết thương làm anh không còn tồn tại trên thế gian nữa do viên đạn CKC xuyên thủng màn tang ( theo giám định sau cái chết của Chính quyền VNCH).
Đám tang anh của tôi làm theo lễ nghi của người tín hữu Cao Đài, nhưng chính quyền thời VNCH lúc ấy đã cũng truy điệu theo truyền thống của một quân nhân. Anh tôi đã được những người đồng đội đưa tiễn với nhiều loạt súng đưa hồn tận nghĩa trang và dĩ nhiên đã được phủ cờ  vàng ba sọc đỏ Việt Nam Cộng Hòa.
Qua sự hy sinh của anh tôi. Cơ quan An Ninh Quân Đội Tỉnh Tây Ninh đã vào cuộc. Bằng sự chuyên nghiệp họ đã tìm phăng manh mối của bọn nằm vùng. Họ đã bắt được hầu hết các viên chức Xã , Ấp có liên quan đến sự việc.Một ông Phó Xã trưởng, ông Trưởng Ấp , ông Phó Trưởng Ấp và một Nghĩa Quân viên đã bị truy tố trước pháp luật. Tên anh của tôi được chính quyền thời đó tuyên dương và đặt tên cho một con đường trong Thôn Ấp.
Vài năm sau,khi tôi trưởng thành, nếu ai có nhắc đến cái chết của anh, tôi thường lân la và tìm hiểu sự việc để truy tìm nguyên nhân hơn. Dĩ nhiên có nhiều nguồn tin, không đúng 100%, nhưng nó cũng tạo sự hữu ích trên con đường tìm biết.
Những người bạn cùng chiến đấu với anh tôi cùng thời thì cho rằng sự lõng lẽo của tổ chức Nghĩa Quân trong những năm đầu khi thành lập ( chuyễn từ Dân Vệ qua).Tôi cho đó chỉ là một phần tương đối của hiện tượng trong việc đi tìm nguyên nhân về cái chết của một quân nhân.Thực chất cái chết của anh tôi đã tạo một sự kiện cho một chuỗi sinh hoạt có tính “ lính” và “dân”.  Ai cũng có thể biết Việt cộng gian trá và xảo quyệt. Thế nhưng thế hệ này đến thế hệ khác đều mắc phải bởi tính không cảnh giác nên đã bị Việt cộng len lõi xâm nhập trong tổ chức và khuynh đảo.
Lùi lại thời điểm trước khi xảy ra cái chết của anh tôi. Thời điểm đó,người lính Nghĩa Quân cải tổ từ Dân Vệ qua, đôi khi có những “ thanh niên chiến đấu” , nên việc gia nhập của họ về mặt “ lý lịch “ ngành an ninh còn sơ hở, bởi phần lớn những thanh niên gia nhập vào Dân Vệ - Nghĩa Quân sau này đều sống và lớn lên ở địa phương. Về mặt “ nổi”  thực tế mọi người ai  cũng đều minh xác  nên được tin tưởng nhiều. Cho nên,nếu người nào họ quyết tâm phục vụ lý tưởng bảo vệ xóm thôn của họ thì thật sự họ trở nên những con người đầy quả cảm và cương quyết. Và theo suy nghĩ này thì cũng có những sự kiện ngược lại mà đầu mối là do Việt cộng móc nối dụ dỗ đưa đến sự phá hoại.
Về An ninh, nhất về mặt trang bị ý thức tình báo cho một quân nhân  còn quá kém chưa đi sâu vào lòng của mỗi quân nhân ( đặc biệt những người lính Nghĩa Quân và Dân Vệ vì nhiệm vụ của người lính Nghĩa Quân không giống như người lính các binh chủng của quân lực VNCH. Người lính Nghĩa Quân, họ vừa là một quân nhân tác chiến để bảo vệ làng thôn, họ còn là một người lính tâm lý chiến, và cũng vừa là một “ tình báo viên”….) Do vậy, tính chất của họ không chỉ đơn thuần là một chiến sĩ giết giặc mà là một quân nhân đa năng.
Lòng vòng, trở lại ý nghĩa tìm nguyên nhân.Những yếu tố khách quan,chủ quan đều được cân nhắc, và về sau được mọi người đồng chung lý giải.Đó là yếu tố trực tiếp đưa đến sự hy sinh của  anh tôi và cũng là nguyên nhân tiên quyết.Do sự yếu kém về mặt tổ chức và sự trang bị ý thức tình báo cho lực lượng  Dân Vệ - Nghĩa Quân lúc cải tổ.
Trung đội Nghĩa Quân Ấp của anh tôi phụ trách một tuyến dọc dài giáp ranh với những Ấp khác trong một khu vực rộng lớn của một xã chứa 8 Ấp. Địa bàn Ấp của Trung Đội Nghĩa Quân của anh tiếp cận với ngõ ra vào tiếp tế lương thực cho bọn Việt cộng ở vùng sâu.Vào thời kỳ chương trình thực hiện Ấp Chiến Lược. Bọn du kích Việt cộng bị động và đưa đến giai đoạn đói cực kỳ bởi các cửa ngõ ở các đầu Ấp Chiến Lược đều có Lính Nghĩa Quân và Dân Vệ canh gác. Trung Đội Nghĩa Quân của anh tôi đã làm việc này hữu hiệu. Vì thế bọn Việt cộng rất oán ghét và tìm cách triệt hạ.
Tôi không biết ở mỗi nơi tổ chức Lực lượng  Nghĩa Quân ra sao, nhưng tôi biết ở xã Hiệp Ninh nơi quê hương của tôi có một Trung đội Nghĩa Quân ở Xã và mỗi Ấp đều có một Trung đội nữa. Vào thời điểm này,những người lính Nghĩa Quân ở Ấp thường hay tập họp tại một vị trí cố định nào đó rồi nhận sự chỉ thị từ trên ( cấp Xã hay Quận) để đi hành quân. Lính Nghĩa Quân ấp Hiệp Thạnh hay tập họp tại nhà anh của tôi và cũng chính sự tập họp cố định này mà đã là một môi trường tốt cho bọn Việt cộng nằm vùng theo dõi dưới dạng “ tình báo nhân dân”. Hơn thế nữa,sau mỗi lần đi hành quân hay đi “ ba trui” sau đêm khuya mọi người lính đều về nhà với gia đình,vợ con, bởi vì không có đồn bót để vào trú ngụ. Chính sự việc lâu ngày trở nên quán tính nên Việt cộng mới điều nghiên và bao vây ám sát và bắn giết từng người. Việc hy sinh của anh tôi cũng đã lọt trong tầm ngắm của Việt cộng qua thời gian dài điều nghiên nên bọn chúng đã hành sự có kết quả cho bọn họ.
Câu chuyện về cái chết của anh tôi sau ba tháng khi con mang ( mễnh ) chạy vào làng,như tôi đã trình tiết. Còn việc tin vào hay không tùy theo đức tin của mỗi người.
Trở lại việc con mang ( mễnh ) vào trại, mọi người tù chúng tôi phần lớn cho rằng bọn cán bộ ngoài “ khung” sẽ lãnh hâu quả sau khi ăn thịt con mang này. Sự việc xui xẻo xảy ra cho bọn cán bộ khung ở một dạng khác. Có lẽ vì những người tù nhân của chúng tôi không biết nhiều hơn về bọn họ. Lại nữa vì là những tin đồn truyền khẩu ( nhưng trong giới hạn) nên khó tưởng tượng.
Sau thời điểm con mang chạy vào trại. Những người tù của chúng tôi nghe tin đồn thổi rằng hai vệ binh ở trại D12 bắn với nhau vì giành giựt gái một chết và một bị thương nặng trong một quán cà phê trên đường vào xã Cẩm Đường. Anh vệ binh chết tên H người còn lại tên T. Một việc khác, là việc tên thiếu úy cán bộ chấp pháp bị một vệ binh người miền Nam bắn gãy chân sau việc cải vã nhau về món tiền không biết nguồn gốc.
Đối với người tù ( cải tạo) chúng tôi muốn được yên thân,nhưng đối với Việt cộng họ không để cho chúng tôi được một phút nào bình yên. Họ phỉnh gạt lừa đảo, hứa hẹn và luôn khủng bố … cho nên những người tù chỉ có một suy nghĩ duy nhất  là phải vượt thoát nếu có thể.
Chuyện anh Dương Phục thoát khỏi conex trong thời gian 9 ngày bị giam giữ, bị còng chân, đánh đập tàn nhẫn nhiều lần chết đi sống lại  của bọn quỹ dữ gọi là quản giáo và cuối cùng anh đã đi đến bến bờ tự do đã lan truyền trong cộng đồng tù nhân chính trị của chúng tôi mặc dù tin rỉ tai tương đối dè dặt. Nhưng đó là một ánh sáng, đã soi qua con đường hầm nhò và trong sự ý niệm thế nào về con người tù nhân cộng sản phải làm.  
Chi tiết về việc vượt thoát của anh Dương Phục còn nhiều tình tiết hấp dẫn, vào thời điểm đó những người tù của chúng tôi duy diễn theo tính cá nhân, nhưng cuối cùng vẫn đồng nghĩ anh Dương Phục chắc là con của Chúa nên được nhiều Linh mục và giáo dân che chở trong lúc vượt thoát. Một đặc điểm mà cũng là nguyên nhân chính để anh thoát tù ngục là phần lớn do sự thông minh , sáng suốt của người vợ anh là chị Thủy. Người đã phối trí cho cuộc đào thoát của anh.Nhưng làm thế nào anh rời khỏi conex trong lúc anh đang bị còng? Những người tù chúng tôi phải thắc mắc lâu dài vào những năm sau đó. Và bây giờ, yếu tố then chốt đó đã được giải rõ qua quyển hồi ký vượt thoát của anh.
Tôi biết anh Dương Phục một vài lần khi đội tù lao động của chúng tôi cùng đi lao động với đội của anh trên cánh đồng Cẩm Mỹ. Tôi nhớ rõ lắm , dương như anh ở trại D14. Trại tù này cách trại tù D12 của tôi không xa  nên chúng có thể dùng mắt thấy được sinh hoạt tổng diện mỗi bên.
Như nói trên, sự đào thoát của anh Dương Phục thời điểm đó ít nhiều làm cho những người tù của chúng tôi có một sự trăn trở ý thức rõ rệt. Cho nên sau này cũng có nhiều cuộc  “ trốn trại” tiếp diễn xảy ra ngay vào lúc đang lao động ngoài nương rẫy.Có người thoát và cũng có người bị bắt lại và thân thể cũng chẳng còn nguyên với sự hành hạ của bọn vệ binh và quản giáo.
Đầu năm 1979, hàng tuần tôi không còn đi nhận hàng thực phẩm từ những nhà thầu cung cấp do những chiếc xe hơi chạy bằng than mang đến nữa. Tôi được “ biên chế” ra đội lao động trở lại. Hàng ngày đội tù của chúng tôi phải quần quật dưới cái nắng tháng giêng của vùng đất đỏ Cẩm Mỹ - Cẩm Đường. Chúng tôi trồng hàng chục mẫu khoai mì,khi chúng tôi đói lại không có khoai mì để ăn. Thay vào đó chúng tôi phải ăn bo bo và bắp.
Một lần,anh đội trưởng HKL phân bố anh D anh N và tôi đi vác cây mì ở nhà người dân.Theo giữ chúng tôi là một anh vệ binh trẻ, khi vào nhà nơi lấy cây mì anh gặp cô con gái của ông chủ nhà anh mãi mê tán tỉnh cho nên ba anh em chúng tôi sinh tình  bàn với nhau về “ kế hoạch vượt thoát”. Anh N là lớn tuổi nhất và cho biết nhiều về tin tức bên ngoài . Anh quả quyết rằng hiện vẫn còn có những người anh em Chiến sĩ VNCH vẫn còn ẩn núp trong những khu vực rừng già giáp với biên giới Campuchia và Viet Nam cũng như Lào, mà bọn Việt cộng gọi là “ tàn quân”.Nếu chúng ta vượt thoát được sẽ gia nhập với những chiến sĩ rất dễ dàng , bởi vì chúng mình là tù vượt trại.Bằng chứng là việc nổ súng đánh  nhau với bọn Viet cộng vừa qua ở xóm đạo Cây Gõ mà hầu như những người tù ai ai cũng biết. Anh D thì nói về thực trạng cán bộ ăn hối lộ và có sự việc làm giấy tờ giả để mỗi khi mỗi tù nhân vượt ngục trót lọt sẽ được vượt biên ra nước ngoài. Và anh khẳng định thân nhân của anh biết về vấn đề này.Riêng tôi là người nhỏ tuổi so với hai anh N và D. Tôi không biết nhiều về những sự kiện, nhưng mỗi lần đi lao động tôi thường hay quan sát cách thức gìn giữ tù nhân của bọn vệ binh, đặc biệt và những con đường có thể an toàn khi vượt thoát. Trong khi ba anh em chúng tôi có thời gian trao đổi ý tưởng, thình lình tên vệ binh trẻ xuất hiện hắn đưa đôi mắt liếc dọc liếc xuôi và hỏi lớn: các anh làm gì chùm nhum như thế. Tại sao không đi vác cây mì mà ngồi lì thế ? Chúng tôi nói với hắn chúng tôi đã làm và mới vừa nghỉ. Hắn quát to, các anh đứng dậy đi làm nha, mỗi anh từ giờ đến lúc ra về mỗi người phải hai bó lớn nhé. Quát xong hắn lại đi thẳng vào nhà nơi có cô gái có lẽ đang chờ hắn.
Hết ngày lao động, người tù chúng tôi về trại. Ngày hôm sau, thay vì đi lao động vác cây mì trồng như thường lệ. Ba chúng tôi bị “ biên chế” làm việc khuân vác gạch ngoài trại do nhà thầu cung cấp bằng xe nơi một bãi đất trống cách trại khoảng 200 mét. Mục đích của họ là xây dựng một lò bánh mì ở ngoài “ khung”.
Chính nhờ làm công việc này, nên chúng tôi tiếp xúc được với người dân bên ngoài. Chúng tôi không bỏ lỡ cơ hội khai thác thêm nhiều tin cung cấp cho ý tưởng “ trôn trại” của chúng tôi.Nhiều nhân công bốc xếp gạch, họ là người của địa phương nên họ rất am tường về tình hình ở nơi vùng họ cư ngụ, đồng thời họ cũng biết rất nhiều về những tin tức chiến sự. Họ cho biết, cách vài tháng lính đồ bông của VNCH đã vào vùng Cây Gõ và đã giao tranh với bộ đội trấn giữ ở đây họ đã bắn chết rất nhiều bộ đội. Họ cũng hy sinh một ít người.Một nhân công nói: chú tôi trước là trung úy đại đội trưởng lính Địa Phương Quân thuộc Tiểu khu Long Khánh, sau ngày 30 tháng tư năm 1975, ông không về nhà và gia đình xem như mất tích đến giờ. Nhưng thời gian sau đó, gia đình biết chú vẫn còn sống và vẫn còn chiến đấu ở một nơi nào trong địa bàn các tỉnh miền Đông.
Lần sau cùng,công tác chuyển gạch vào “ khung”, theo giữ toán tù chúng tôi là một anh vệ binh người miền Bắc tên M trông anh có vẽ cởi mở và có ý muốn tìm hiểu về Saigon. Anh N đã tiếp cận nói chuyện với anh về cuộc sống người dân ở Saigon trước năm 1975.Anh dường như đã hiểu phần nào và sau đó cho biết rằng anh cũng có người bà con di cư năm 1954 hiện nay người thân của anh ta đang ở Hố Nai.
Cũng lần chuyển gạch này, anh D không biết bằng cách nào đã móc nối được với anh bộ đội này. Anh ta cho biết anh cũng không còn được cấp trên của anh đưa đi giữ  toán chuyển gạch vào “ khung “ nữa vì yêu cầu đã xong. Anh sẽ nhận công tác mới làm vệ binh cho toán chặt cây rừng làm củi. Các anh nào vào đội chặt cây sẽ gặp anh ta.
Cũng thật may ba anh em chúng tôi hết chuyển gạch được “ biên chế” vào toán chặt cây làm củi. Toán này,lấy một phần ba số người của một đội ước lượng khoảng 15 người. Theo canh chừng toán gồm một anh cán bộ “ khung “ và một vệ binh. Ba ngày đầu cho công tác chặt cây, chúng tôi không thấy anh vệ binh người Bắc tên M  đi canh giữ mà lại là những vệ binh khác. Anh D nôn nóng vì có lẽ anh muốn gặp anh vệ binh M để tìm hiểu thêm hoặc khai thác một số tin tức hoặc nhờ vã hay lợi dụng những gì mà chính anh mới hiểu, còn anh N và tôi không hề biết.
Đến ngày thứ năm trong lao động chặt cây rừng, chúng tôi đã nhận ra anh khi anh cùng một cán bộ trong khung nhận toán chặt cây chúng tôi và hướng dẫn chúng tôi vào cánh rừng phía Đông Cù Bị, Cẩm Mỹ. Trong lúc giải lao anh D trong nhóm của chúng tôi đã tiếp xúc được anh vệ binh M. Ngồi gần tôi và anh N thấy được anh D và anh vệ binh M hút thuốc và trao đổi qua lại . Tôi nghĩ là anh D đã Thật sự móc nối được anh vệ binh M bằng đường đút lót tiền bạc và hứa hẹn khi anh chàng vệ binh có dịp về Saigon thì nên ghé qua gia đình của anh D để nhận những gì hai người đã hứa với nhau. Anh D đã cho tôi và anh N biết giờ L đêm P vệ binh M có ca gác trên lô cốt trước cổng ra vào trại. Và máy phát điện ở ngoài “khung” bị hỏng chưa có thợ sửa chửa. Cả 3 chúng tôi nắm bắt tin tức này và phác họa kế hoạch hành động vượt thoát. Thực ra chúng tôi đã chuẩn bị  từ thời gian trước khi còn ở trong toán vác cây khoai mì. Đêm ngày L đã đến . Đúng giờ P chúng tôi thực hiện kế hoạch như đã định. Trên vọng gác trước cổng trại, chúng tôi nghe tiếng xì xào của vệ binh đổi ca gác, anh D dùng tay quẹt lỗ mũi như ra dấu cho chúng tôi tiến hành. Chúng tôi đồng loạt quan sát những anh em cùng tù để cảnh giác và lần lượt từng người ra nơi hố xí ( trại này hố xí nằm trong vòng rào của trại)  giả vờ như đi đại tiện để đánh lừa anh em tù cùng láng.Lợi dụng không có đèn hàng rào,anh D đã dùng kềm cắt kẻm gai cắt gọn 3 vòng kẻm ( kềm cắt kẻm đã được dấu mấy ngày trước nơi vị trí ấn định) và anh dùng tay vạch lổ chui ra ngoài tiếp theo anh N và sau cùng là tôi. Khi ra khỏi vòng rào. Chúng tôi núp dưới một mương rồi bò ra ngoài đám cây lau sậy và chúng tôi đi thẳng về hướng Cù Bị - Cẩm Mỹ . Khi đến vườn cao su Cẩm Mỹ chúng tôi ước lượng khoảng 4 giờ sáng vì nghe được tiếng gà gáy từ những ấp kinh tế xa vọng về . Lúc này, chúng tôi cũng không nghe động binh gì từ trại giam. Ba chúng tôi đi dọc theo đường mòn mà trước đây chúng tôi đã có nhiều lần đi vác củi cho trại.Đến gần sáng chúng tôi chưa ra khỏi khu vực Cẩm Mỹ. Chúng tôi thấy một vài người dân ( chắc là ở địa phương) lên rẫy sớm. Sợ bị phát giác chúng tôi nằm rạp xuống dưới con rạch không có nước để tránh họ.Khi họ đi qua chúng tôi bắt đầu đi tiếp và tìm đường lên miệt Cây Gáo. Trời đã sáng hẳn, chúng tôi nghe ồn ào tiếng xe máy quyện theo gió từ xa đồng thời cùng tiếng súng nổ râm ran từ hướng trại giam. Chúng tôi dự đoán rằng họ đã phát giác sự trốn trại của chúng tôi. Theo sự chỉ dẫn của anh lơ xe (như sự tiếp xúc mỗi lần vác gạch trước đây) thì chúng tôi chỉ còn có nửa cây số nữa là chúng tôi đến được vùng Cây Gáo mà nơi đó sẽ còn có những anh chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa hiện còn đang chiến đấu. Chúng tôi cố gắng đi nhanh hướng đến mục tiêu. Tiếng súng mỗi lúc mỗi gần và tiếng la ó của vệ binh cũng như tiếng hỏi thăm người dân của nhóm vệ binh truy tìm ngày càng gần. Ba chúng tôi quyết tìm chổ ẩn náo.Chúng tôi lao vào trong nương rẩy của người dân đã bỏ hoang không biết từ lúc nào nhưng cây cối mọc um tùm cao khỏi đầu trông giống như một cụm rừng chồi. Và mỗi người mỗi nơi để lánh nạn.Tôi chọn một nơi có hốc đá và dây mây rừng phủ trên chằng chịt người khó trông thấy. Còn hai anh D và N không biết tản nơi nào, nhưng tôi đoán là cũng đâu đấy gần đó.
Trời đã xế chiều, tôi không nghe tiếng không nghe tiếng ồn ào của nhóm vệ binh truy tìm. Tôi tự suy nghĩ có lẽ họ không truy tìm nữa là vì họ nghĩ chúng tôi đã thoát ra khỏi địa phận quản lý của họ rồi. Bây giờ họ chỉ đón bắt chúng tôi từ các chốt gác trên tuyến đường xe về thị xã học thành phố. Họ sẽ ra sức chặn nơi những chốt chặn.
Nằm trong bụi rậm, con sâu mây bò đầy đôi khi leo lên cả người, nhưng ít khi dám nhúc nhích sợ gây tiếng động. Nhìn ra ngoài thấy một số nương dân phần lớn là gái đang đi tìm một loại dây gì tôi không thể được biết, họ nói nói cười cười trông rất tự nhiên. Có những cô gái chỉ độ tuổi mới 15 tay cầm một cái dao dài chặt một số dây leo gần bên chổ tôi trú ẩn. Tôi sợ các cô gái ấy thấy tôi nên cố thu người trọn trong dám dây mây mặc cho mấy con sâu tự do bám trên đầu trên cổ.
Trời đã gần chiều, đám các cô gái không còn lẩn quẩn quanh chổ tôi trú ẩn, tôi vươn mình dậy để gãy ngứa và gạt mấy con sâu ra khỏi người. Tôi nghe tiếng động đậy từ một cụm mây gần đó, tôi vươn mắt nhìn qua thấy anh D đang lửng thửng đi về hướng tôi đang trú. Tôi cố quan sát một lần nữa thật kỹ vì sợ rằng mắt của mình bị phải quáng gà bởi sự lo sợ. Thật rồi, đúng anh D. Tôi lao ra và gọi nhẹ tên anh. Anh mừng  và hỏi anh N đâu, tôi trả lời không biết.Anh D và tôi đi một đoạn trong đám rừng chồi đến một cụm cây leo trên mõm đá thấy có tiếng động. Hai chúng tôi nằm sụp xuống quan sát chúng tôi thấy một người trung niên từ từ bước ra từ đám dây leo phủ kín. Nhìn thật kỷ đúng là anh N.Chúng tôi tiến đến và cả ba họp lại tính kế hoạch là chờ đêm về sẽ đi tiếp đến vùng Cây Gáo như dự tính.
Đêm về,chúng tôi tôi bắt đầu định hướng và thẳng tiến đến vùng Cây Gáo. Chúng tôi dự kiến sẽ đến đó trước 9 giờ đêm bởi từ chổ chúng tôi trú ẩn đến đó ước lượng chỉ còn nửa cây số nếu là ban ngày đi khoảng nửa tiếng đồng hồ, ban đêm thì mất thời gian hơn. Nương theo đường mòn ba chúng tôi tiến bước. Trời về đêm không khí rừng nghe u tịch hơn đôi khi cũng nghe rợn người vì sợ thú rừng.Chúng tôi đi khá nhanh bởi những vùng này đều có mặt chúng tôi mỗi khi lao động chặt củi đốn tre, có thể nói là gần như quen thuộc đường sá.
Chúng tôi đi gần một tiếng đồng hồ và theo lời anh lơ xe hướng dẫn lúc trước khi đến ngã ba đường mòn rẽ trái sẽ vào được đám rừng cây chằng chịt mà người dân địa phương gọi là rừng cấm.Y theo lời hướng dẫn, chúng chúng đã đến được ngã ba đường mòn chỉ cần rẽ trái sẽ vào được trong khu rừng âm u gọi là “ rừng cấm” như mục đích của chúng tôi mong muốn. Thế nhưng chúng tôi mới vừa tới đến ngã ba chúng tôi nghe tiếng động xì xào. Chúng tôi vội nằm mọp xuống dùng ánh sáng nền đất để quan sát thì thấy rõ ràng là một chiếc xe tăng M113 của Việt cộng đang nằm chình ình vào lối rẽ trái vô rừng cấm. Chúng tôi chưa kịp đứng lên để thoát thì hai tên Việt cộng cầm 2 khẩu AK 47 dí vào đầu 3 chúng tôi và đem về chiếc xe tăng. Bọn chúng cho vào mỗi người chúng tôi vài bá súng đau thấu xương tủy.Chúng khai thác biết chúng tôi là tù trốn trại nên đã gởi chúng tôi về lại trại.
Khi bị giải giao về trại mỗi anh em chúng tôi bị hành hạ không thương tiếc. Ba chúng tôi được nhốt trong 3 chiếc conex khác nhau và bị đánh liên tục. Họ xích chúng tôi với những sợi dây cáp to trong thành conex và đem ra tra khảo thường xuyên. Trong thời gian hơn nửa tháng bị nhốt trong conex và hành hạ thân xác . Chúng tôi chỉ nghĩ chết còn sướng hơn.Mỗi ngày đều 2 cử đánh đập với những tên cán bộ khác nhau. Kết quả anh D đã bị gảy một chân trái. Anh N xệ một cánh tay và một phần đầu bị dập nghe nói sau này anh điên luôn và đã chết trong một trại giam khác. Còn tôi dập cả vai lưng phía sau và nát một phần bên mắt phải.
Ba chúng tôi không còn gặp lại, sau khi ra khỏi conex. Tôi bị họ đưa đến trại giam Z30 D Hàm Tân Thuận Hải.Nghe nói anh D thì bị đưa ra Bắc còn anh N bị đưa về trại giam Chí Hòa.
Năm 1989, tôi có gặp lại anh anh D ngay ở vườn cây trước Sở Ngoại Vụ thành phố Saigon,bởi vì khi được tin Hoa Kỳ và chính quyền Cộng Sản Viet Nam đã thỏa thuận cho tù nhân “ cải tạo” được định cư tại Mỹ theo diện nhân đạo. Các người tù chính trị thường tụ tập để trao biết tin tức của chương trình nên tôi có dịp gặp lại anh . Tôi cũng được biết anh cùng gia đình đã qua định cư ở Hoa Kỳ rồi, nhưng hiện nay tôi không liên lạc được và biết anh ở tiểu bang nào.

Duy Văn Hà Đình Huy






 







Thứ Tư, 18 tháng 5, 2016

NGƯỜI VIỆT NAM HÈN HẠ


Mời bạn đọc một bài viết rất can đảm của một phụ nữ, đang sống tại Việt Nam.

Cách đây đã lâu, tôi đọc “người trung quốc xấu xí” của ông Bá Dương (Ðài Loan), chưa bàn tới hay/dở/ đúng/ sai của nội dung cuốn sách gây tranh cãi ầm ĩ đó, tôi chỉ nhớ lại cảm giác giật mình của tôi khi đó. Khi tôi đọc lướt qua vài trang sách Tôi như vỡ ra một niềm cảm khái mà từ lâu nó cứ âm ỉ trong lòng. Tôi biết thế giới đã từng có những cuốn như “Người Mỹ xấu xí,” ”Người Nhật Bản xấu xí,” rồi mới đến cuốn của ông Bá Dương. Tôi vừa đọc, vừa tự hỏi, tại sao người việt nam chúng ta không có một cuốn như thế này? Tại sao chúng ta cứ tự ru ngủ mình trong cái điệp khúc dân tộc việt nam là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” …nhìn đâu cũng thấy anh hùng, liệt sĩ… Nếu thực sự chúng ta có những tố chất đó, nếu thực sự chúng ta là những người như thế, sao kết quả chúng ta hiện nay lại là một đất nước như thế này?
Một đất nước mà hơn phân nửa các cô cậu tú tài đi thi cử nhân khoe rằng mình có quay cóp một cách hoàn toàn không có chút tự trọng (đó là được hỏi, còn báo chí không cần hỏi vẫn có những hình ảnh phao thi trắng cả trường thi! Vậy thì thi cái gì? Thi xem ai quay cóp giỏi hơn chăng?). Trong đó còn có cả những đứa trẻ bảo rằng năm nay không thi thì năm sau thi, chứ làm bài mà phỉ báng “thần tượng Su-Ju” của nó là nó không thi! Mặc cho bao nhiêu tâm sức, kỳ vọng của gia đình, nhà trường, xã hội – những nền tảng đã cho nó có được cuộc sống và kiến thức để mà tiếp cận được với Su-Ju danh giá của nó. Thế mà nó vẫn được rất nhiều đứa trẻ khác tung hô! Chính là những đứa trẻ sẵn lòng khóc lóc, quỳ gối, hôn ghế… trước thần tượng. Một dân tộc gì đã sản sinh và nuôi dạy ra một thế hệ kế thừa như thế?
Con nít nó học cha anh mà ra, chúng ta đã nuôi dạy trẻ con thành ra như thế sao? Ðừng ai đổ thừa cho ai. Vì trường học đổ cho cha mẹ, cha mẹ đổ cho xã hội, xã hội đổ cho cha mẹ… nhà trường. Tóm lại, đừng đổ thừa nữa. Hãy biết hốt về mình đi! Tất cả chúng ta là người lớn, chúng ta đều có lỗi.
Bởi người lớn có hơn gì? Một xã hội mà người ta đang sẵn lòng thuốc chết nhau đi từng ngày bởi tiền bạc bất kể lương tri. Làm quan thì chỉ lo vơ vét, tham nhũng, quỳ gối trước ngoại bang để duy trì sự thống trị trước nhân dân.
Gần 40 năm thống nhất, việt nam có hơn gì thời chiến ngoài đống xe máy chạy đầy đường… trong túi ai cũng có một cái điện thoại di động? Dù nhà ở không có, đất đai không có, bảo hiểm không có, tương lai cho con cái không có,… nhưng bia rượu chảy tràn lan mỗi ngày trong quán nhậu. Người ta được ru giấc suốt 40 năm bằng niềm ước mơ cháy bỏng “cơm no, áo ấm.” Hạnh phúc chỉ thế thôi! Muốn hạnh phúc hơn thì hãy làm giàu, làm giàu, làm giàu! “Doanh nhân là chiến sĩ thời bình.” Cứt! Tôi ỉa vào cái khẩu hiệu sặc mùi con buôn, đầy phân chợ trời đó! Tiếng súng không còn nổ ngoài đường. Một cuộc chiến khác đậm chất mafia, côn đồ, đảo Sicily chắc còn phải chào thua nhà cầm quyền việt nam trước khả năng dùng “luật im lặng” của họ với dân mình. Cuộc chiến đó là rình mò, là theo dõi, là cấm cản, là kiểm duyệt, là vu cáo, là bắt bớ, là dùi cui, là tù đày, là chết không lý do, là bị bịt miệng tại tòa, là con cháu theo lời lãnh đạo cầm gậy gộc ra ngoài đồng ức hiếp ông bà cha mẹ chòm xóm của mình vì họ đang giữ đất. Trong khi họ giữ đất cho ai? Những đứa thanh niên đó nó đang nghĩ gì khi quay lưng lại với dân tộc mình? Ðơn giản thôi. Nó tin rằng nếu trung thành với cái thể chế mà nó đang phục vụ, thể chế đó sẽ cho nó công việc ổn định, đặc quyền, đặc lợi hơn người. Vậy là nó nhắm mắt làm theo, coi nhân dân là cỏ rác, cũng vì lợi ích cá nhân … gia đình nó- nếu nó có nghĩ tới. Chứ ngoài ra, liệu còn cái lý tưởng cao đẹp nào có thể tin vào lúc này? Ðừng nói với tôi là “lý tưởng Hồ Chí Minh” hay “lý tưởng cộng sản” nhé! Hỏi những đứa mặc áo xanh cán bộ đoàn thử xem, nó nói có trôi chảy không? Tôi đã thử rồi, rốt cuộc là ngồi im nghe tôi nói huyên thuyên toàn những điều mà trường học gọi là “phản động.”
Cuộc chiến này được khoác lên chiếc áo bảo vệ hòa bình, tự do, hạnh phúc. Còn bên trong là để bảo vệ quyền lợi, quyền lực cho một nhóm người gắn kết với nhau bằng những chiếc răng cùng gặm vào xương máu người nghèo, người thất học, người bán buôn lương thiện hàng ngày. Những người mỗi ngày chỉ biết tạ ơn trời phật đã cho chúng con một ngày yên ổn làm ăn, không bị cán bộ thuế đến nhũng nhiễu, không bị CSGT thổi phạt kiếm ăn, không bị đội dân phòng rượt đuổi, không bị ông chủ đẩy vào toa-lét để sờ soạng, không bị cắt tiền tăng ca, không bị cho ăn cơm thiu ngộ độc, không bị bệnh đột ngột phải vào bệnh viện nằm gầm giường chờ chết,…
Thế là cái dân tộc đầy sợ sệt, bất an đó cuống cuồng kiếm tiền, cuống cuồng vơ chỗ này, cấu chỗ kia để lo cho cái thân mình. Họ còn biết làm gì nữa?
Và khi họ chăm chắm vào tiền và sự yên ổn cho mình, họ để mặc cho một bọn ác khác lên ngôi, bọn này là sản phẩm của công thức:Bên trên, chúng nhìn thấy cách hành xử của một chính quyền côn đồ, có tiền là ra luật + Bên cạnh, chúng nhìn thấy những con người thờ ơ với người khác, chỉ còn biết nghĩ tới mình + Bên dưới, chúng nhận ra một đám người khổ sở, sợ sệt, yếu ớt = Chúng chợt nhận ra chúng có khả năng luồn cúi bên trên, tránh né bên cạnh… ức hiếp bên dưới.
Sao mà tôi sợ bọn người đó như thế?!
Bọn đó tập trung vào các cơ quan công quyền, làm quản lý, làm công an, làm công chức,… làm “đầy tớ” của nhân dân!
Bọn công bộc đó đã cùng nhau đẩy những cụ già bỏ quê bỏ xứ, lên Sài Gòn ngồi vạ vật dầm mưa dãi nắng suốt ngày đêm, ngày này qua tháng nọ để kêu oan.
Bọn công bộc đó đã đẩy 2 mẹ con người phụ nữ nọ phải dùng đến cách phản kháng cuối cùng mà họ có là khỏa thân ở giữa đường để đòi lại công bằng. Vì trong tay họ còn có gì để chống lại chúng ngoài phẩm cách của người đàn bà vốn được coi là thiêng liêng? Họ dùng đến cách đó, và cuối cùng bị chúng lôi kéo dọc đường và nỗi oan của họ có ai thèm đoái tới?
Bọn công bộc đó đã đẩy đến đỉnh điểm hôm nay, một người mẹ uất ức tự thiêu trước cổng 1 cơ quan công quyền vì không còn sức để chịu đựng chúng…
Tôi sợ bọn chúng vì bọn chúng đông quá, đông như kiến cỏ. Chúng nhan nhản khắp nơi, ngày ngày bóp chết mọi ước mơ, triệt tiêu mọi khao khát, thêm sự dốt nát của chúng vào nữa là hoàn hảo để tạo ra một nền kinh tế xã hội thụt lùi đến chóng mặt, quay cuồng trong dối trá và danh lợi. Ðáng sợ hơn, cuộc sống ấm êm no đủ của chúng nhờ vào tính cơ hội – thu vén lại là sự thèm khát của những tầng lớp khác. Khiến cho những con thiêu thân non trẻ khác lao vào như một cơ hội ngàn vàng.
Bọn này tiếp tay cho bọn con buôn cũng lưu manh không kém. Thế là chúng ta ăn thức ăn có độc mỗi ngày, con cháu chúng ta uống sữa độc mỗi ngày, chúng ta đi trên những con đường hiểm họa mỗi ngày, chúng ta tiêu dùng những gì chúng mang tới, chúng ban phát, với giá mà chúng ấn định, với mức thuế mà chúng muốn,… không còn một lựa chọn nào khác. Không biết làm gì khác, không có phản ứng gì khác! Vì chúng ta lương thiện.
Kẻ không lương thiện có những phản ứng tàn độc hơn, hoặc biến hẳn sang một trạng thái sống khác, như một sự kết tinh cao cấp hơn của một xã hội đương nhiên sẽ sản sinh ra nó.
Tôi nghĩ đến bọn này khi tôi đọc tin về tên bác sĩ lợi dụng lúc mẹ của bệnh nhi đi lấy giấy xét nghiệm, hắn hãm hiếp đứa bé mới 3 tuổi.
Tôi đọc tin ông bà chủ đánh trẻ làm công đến thương tật.
Tôi đọc tin một gã thanh niên có học chặt chém bạn gái mình thành từng khúc chỉ vì một chiếc xe máy và chút ít tài sản.
Tôi đọc tin bọn chủ… lơ xe vứt xác hành khách bị lèn chết giữa đường mà cả xe không ai phản ứng.
Tôi đọc tin nữ sinh phải ngủ với thầy giáo để được điểm tốt.
Tôi đọc tin người đi đường bị cướp, may mắn giật lại được túi tiền, nhưng túi rách, tiền bay ra, xung quanh thiên hạ xúm lại nhặt, nhưng không phải nhặt giúp, mà nhặt hết đi không chừa lại đồng nào. Thay vì bị 1 đứa cướp, anh ta bị cả con đường đè ra mà cướp!… Còn rất nhiều tin.
Một dân tộc gì mà độc ác và hèn hạ thế? Dĩ nhiên không chỉ có mình tôi biết đau đớn vì những điều đó.
Chúng ta có cả một thứ to tát mà tôi tạm gọi là “nền văn chương than khóc.”
Trong những tác phẩm thi ca xuất bản từ khoảng 20 năm trở lại đây, tôi không dám nói mình đọc nhiều hay nghe nhiều, nhưng tôi cố gắng đọc, nghe, cố gắng tìm tòi, cố gắng tìm kiếm một tác phẩm nó xứng đáng làm cho tôi thấy dân tộc việt nam của tôi thực sự là “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” một cách đúng nghĩa. Vì hãy quên những hình tượng cách mạng cao đẹp trong văn chương hay cả âm nhạc của miền Bắc thời chiến tranh đi! Ðó không phải là văn chương, nó là thuốc pháo, tìm cách dẫn dắt, thôi thúc người ta chém giết… chết. Không hơn không kém.
Các bạn có tìm kiếm giống tôi không? Và các bạn có tìm thấy không? Hay đầy rẫy xung quanh chúng ta chỉ có 3 loại:
– Loại mờ nhạt, rẻ tiền, xúc cảm vu vơ, vụn vặt, vô thưởng vô phạt.
– Loại có trăn trở, có suy tư, nhưng toàn đau đáu những nồi niềm xưa cũ, tương lai chả biết phải vứt đi đâu và vứt cho ai?
– Loại mạnh mẽ hơn, trực diện hơn, nhưng tầm vóc tác phẩm chỉ ở mức gẩy lên 1 tiếng đàn, rồi thôi!
Tinh thần chúng ta đang được nuôi dưỡng bằng những thứ chỉ đến mức đó thôi.
Còn những thứ hổ lốn lai căng phát trên TV, bán ngoài sạp báo mỗi ngày, tôi không dám kể tới, vì đó là nỗi kinh hoàng mà nếu phân tích thêm, chỉ muốn vứt cái đầu mình đi, không cần suy nghĩ nữa làm gì cho mệt óc.
Vậy cái gì đã gây nên nông nỗi? Tôi không muốn tạo ra sự hiểu lầm là cái gì cũng do lỗi cộng sản.
Nhiều người rất cực đoan, nói ra cái gì sai, họ cũng đổ vấy hết cho cộng sản. Nhưng cộng sản tệ đến thế mà cai trị được chúng ta đến ngày giờ này, thì chúng ta cũng tệ không kém!
Nghe nói cụ Tản Ðà có câu:
Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn!
Cho nên quân ấy mới làm quan.
Những gì độc ác, bẩn thỉu của cộng sản, những người khác đã nói đầy cả ra rồi, tôi nghĩ mình cũng không cần nhắc lại.
Tôi chỉ nghĩ đến một điều, cái gì đã làm cộng sản tồn tại lâu như thế?
Ngoài sự cấu kết quyền lực-quyền lợi để cùng bảo vệ lẫn nhau, cộng sản đã làm gì để chúng ta thành ra một dân tộc việt nam hèn hạ tự trên xuống dưới, từ già tới trẻ như ngày hôm nay? Ngoài sự mafia, côn đồ, trấn áp bằng sợ hãi, giáo dục một cách ngu dân ra, chúng còn làm gì nữa?
Ai từng học luật đều biết, khi quy phạm pháp luật không điều chỉnh được, thì hành vi con người sẽ phải điều chỉnh bởi quy phạm đạo đức. Pháp luật không theo con người lên giường, vào toa-lét, xuống bếp. Nhưng đạo đức theo ta khắp nơi, tận trong ngõ ngách tâm hồn. Pháp luật cũng không ép tạo ra đạo đức. Chính sự vô thần vô thánh, không thừa nhận đức tin mà cộng sản triệt để nhồi nhét từ khi họ nắm được dân tộc này đã hun đúc ra những con người sẵn sàng bán thịt thối cho người ta ăn, đút sữa độc vào miệng con nít, chém mẹ ruột, giết con đẻ, …Vì những người này họ không sợ, hoặc họ tin rằng họ sẽ tránh được sự trừng trị của pháp luật. Khi pháp luật không trị được mà người ta không sợ luân hồi, không sợ quả báo, không sợ bị đày xuống địa ngục,… thì họ còn sợ gì nữa? Việc gì mà họ không dám làm?
Còn những kẻ yếu không có niềm tin là có Phật, có Chúa, có Thánh Allah luôn soi sáng mình, giúp đỡ mình, ngự trị trong mình, thì họ còn biết dựa vào đâu để tìm lại niềm lạc quan mà sống? Mà tranh đấu để tự tìm lấy giá trị sống thiêng liêng mà đấng tạo hóa đã ban cho mỗi chúng ta?
Tôi có cảm giác như mình đang sống giữa một bầy đàn hỗn loạn nhưng hoang vu, hỗn loạn về vật chất – nhưng hoang vu về tinh thần. Bạn có thấy như thế không?
Giữa sự hỗn loạn và hoang vu ấy, cái ác sẽ luôn luôn ngự trị, kẻ có sức mạnh sẽ luôn trấn áp chúng ta. Chúng ta – những kẻ được đến trường nhưng thật ra thất học, những kẻ nghĩ mình lương thiện nhưng thật ra không có lương tri, những kẻ đủ ăn mặc nhưng thật sự chưa hề nếm mùi vị hạnh phúc, những kẻ đọc sách – nghe nhạc mỗi ngày nhưng không biết đó chẳng phải là nghệ thuật đích thực – một nền nghệ thuật có thể soi sáng tâm hồn ta chứ không phải ru ta ngủ trong quên lãng. Những kẻ hoang mang không biết tin ai, không hiểu nên làm gì cho đúng.
Lúc đó, lúc hỗn loạn và hoang vu đó, anh cộng sản xuất hiện và nói: Ðời chúng mày chỉ cần độc lập-tự do-hạnh phúc.
Chúng ta tưởng thế là hay ho lắm! Dù nền độc lập này có mang lại tự do không? Có hạnh phúc không? Hay chúng ta đang cúi đầu nô dịch cho ai đây? Chúng ta thực chất đang sống thế nào đây? Và đang để lại cho con cháu chúng ta di sản gì?
Chúng ta đeo bám theo họ, quên cả chính bản thân mình, một con người, cần phải sống sao cho đúng nghĩa, đúng phẩm cách, hành động đúng theo những gì mà một con người có lương tri cần phải hành động.
Bạn có đang tự hào vì mình là người việt nam không? Hỡi những con người ấu trĩ mang trong mình một đinh ninh sắt đá là tôi rất tự hào vì tôi là người việt nam “cần cù, nhân hậu, thông minh, kiên cường, bất khuất, đoàn kết thương yêu nhau,…” đã từng đấu tranh thắng Mỹ, các bạn không thấy điều đó nó hết thời rồi à? Ta thắng Mỹ để có một xã hội phồn vinh, một dân tộc được tôn trọng. Chứ còn thắng Tàu, thắng Pháp, thắng Mỹ, thắng khắp nơi… Mà ngày nay những kẻ ta từng thắng đó, nó coi chúng ta còn không hơn con chó thì cái chiến thắng đó nhắc tới làm chi cho thêm nhục?
Mặt phải, chúng ta ra rả trên báo mỗi ngày là “Mỹ đã đến biển Ðông,” “bà Hillary dọa TQ không nên gây hấn,”… để mong lòng dân yên ổn. Mặt trái, chúng ta tổ chức ngày hội gặp gỡ những lớp cán bộ đã từng được Tàu đào tạo để cám ơn họ đã “dạy dỗ” cả đám chóp bu việt nam. “Ðĩ” chưa từng thấy! Chưa có cái chính quyền nào mà “đĩ” như chính quyền việt nam hiện tại. Dựa hơi mà cũng không biết dựa hẳn bên nào cho trót. Lá mặt lá trái như thế bảo sao quốc tế nó không khinh?
Còn dân việt nam thì sao? Dám cầm súng đánh TQ hay đánh bất cứ thằng nào xâm lược việt nam nữa không? Mà cầm súng để làm gì? Kết quả của gần 40 năm độc lập, ai cũng thấy cả rồi, không cần nói nữa.
Và cả bọn hèn hạ chúng ta đang ôm lấy nhau, hồi hộp chờ đợi hồi chuông báo tử.
Bổ sung: Sau khi bài này được upload, tôi nhận được khá nhiều comments và cả message. Không biết phải đánh giá như thế nào về những comments hỏi ngược lại tôi với một thái độ khinh khỉnh, qua nhiều câu chữ khác nhau, nhưng đại khái cùng 1ý: “Vậy bạn có hèn không?” He he… Tôi chỉ muốn nhấn mạnh lại 1 điều, suốt cả bài viết, tôi không gọi những người hèn là “các bạn,” tôi gọi là “chúng ta.” Như vậy có dễ hiểu hơn chưa nhỉ?
Tôi không thích tự nhận hay gán ghép. Tôi chỉ nói lên những suy nghĩ của mình, còn đánh giá tôi hay đánh giá chính mình, các bạn cứ tự làm lấy. Thiết nghĩ, đâu cần phải tranh luận chuyện ai hèn, ai không hèn ở đây! Biết hay không biết mới là quan trọng. Mà cái sự khổ sở để đi từ cái “không biết/chưa biết” đến cái “biết” nó sẽ là một quá trình gian nan mà mỗi người phải tự thân trải nghiệm. Không ai giúp ai được đâu. Và tôi hiểu, cái “biết” của tôi nó cũng chỉ giới hạn trong tầm nhân sinh quan nhỏ bé của cá nhân tôi mà thôi. Còn bạn, hãy tiếp tục giữ lấy niềm lạc quan của bạn. Con cừu vẫn có được niềm hạnh phúc mỗi ngày được gặm cỏ non, uống nước suối, ngắm bầu trời xanh, chờ đến ngày xẻ thịt mà! Ðúng không? Hạnh phúc vẫn khắp quanh ta! Những con cừu không biết “tự sướng,” không biết “thủ dâm tinh thần” thì quả thực là ngu còn hơn… cừu! He he…
Bổ sung tiếp: “….Ông bảo xã hội nào cũng có những điều bẩn thỉu. Tôi công nhận điều ấy. Nhưng xã hội bẩn thỉu nhất ông có biết là xã hội nào không? Là xã hội mà thằng ăn cắp không cho rằng nó phạm pháp, nó đang làm điều xấu, người lương thiện thì run sợ, thằng bất lương lại coi việc nó làm là bình thường và kẻ vô liêm sỉ như ông thì vênh vang tự đắc: ta là số đông. Chính là xã hội này đây….” (trích comment của khongnoibiet).
Tự Do Phải Tranh Ðấu Bằng Xương Máu Và Cả Tính Mạng.
Nguồn: Blog Nguyễn Xuân Diện