ĐẠI LỄ KỶ NIỆM 74 TỬ SĨ TRẬN CHIẾN HOÀNG SA
Sáng ngày 15- 01- 2023, tại
thư viện Tully số 880 thuộc thành phố San jose. Hội Hải Quân Bạch Đằng đã tổ chức
Đại Lễ Kỷ Niệm các chiến sĩ tử trận Hoàng Sa năm 1974.
Tham dự gồm đại diện nhiều Hội
Đoàn, Đoàn Thể quốc gia, các cựu quân nhân một số binh chủng VNCH và Đồng Hương tị nạn CS. Sau
Lễ chào cờ Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà. Ông Lê Thái Phúc cựu sĩ quan Hải Quân trình
bày sơ qua về diễn tiến cuộc chiến Hoàng Sa. Cựu Đại Tá Trần Thanh Điền đã cho
mọi người tham dự biết về bút lệnh của Tổng Thống VNCH ra lệnh cho chỉ huy trưởng
vùng 1 Duyên Hải phải dung tất cả ngoại giao để mới các chiếc tàu có mặt phải rời vị trí họ đang có mặt và dùng truyền tin cũng như
đèn hiệu cờ hiệu để thông báo cho phía tàu của đối phương để họ biết đây là hải
đảo thuộc lãnh thổ của VNCH. Đồng thời ông ra lệnh phải bảo vệ lãnh thổ và nếu
cần ra tay trước vì lực lượng của chúng ta yếu hơn…,và nhờ yếu tố bất ngờ đó nên Hải Quân VNCH đã đã đạt được
những thành tích khả quan nhất định.
![]() |
Bàn thờ 74 tử sĩ |
“ Hôm nay, là ngày kỷ niệm của
74 tử sĩ Hải Quân, chúng ta tưởng niệm và ghi nhớ sự hy sinh của họ. Và chúng
ta phải biết ơn họ, những người đã hy sinh giữ lãnh thổ cho dân tộc. Những người
tử sĩ Hải Quân VNCH họ đã làm tròn nhiệm
vụ cảu người trai thời chiến”. Ông nói.
Theo đài BBC và sự nghiên cứu
của ông Nguyễn Hùng Cường ( Viện Nghiên Cứu Khoa Học Biển và Hải Đảo) và Giáo sư Hoàng Việt .Cách đây 48 năm, ngày
19/1/1974, chính quyền Trung Quốc đã đưa quân tấn công lực lượng đồn trú của
Việt Nam Cộng hòa (VNCH) trên quần đảo Hoàng Sa. Đây là nỗi đau, mất mát không
gì bù đắp được của mỗi người dân Việt Nam luôn đau đáu một lòng hướng về hai
quần đảo có vị trí chiến lược đặc biệt của Tổ quốc – Hoàng Sa, Trường Sa mãi
mãi là của Việt Nam.Trung Quốc tuyên truyền trong nước rằng cuộc tấn công xâm
lược vào khu vực quần đảo Hoàng Sa năm 1979 chỉ mang tính “tự vệ”. Tuy nhiên,
giới quan sát quốc tế chỉ rõ, Bắc Kinh bịa đặt trắng trợn về bản chất cuộc hải
chiến.
Theo chuyên gia nghiên cứu
về Biển
Đông, Thạc sĩ Hoàng Việt,
Hoàng Sa chính là sự kiện mở đầu cho chuỗi những hành động quân sự thể hiện
tham vọng của Trung Quốc đối với các đảo, bãi đá ngoài khơi Biển Đông.
Ông Lê Thái Phúc |
Tiếp sau sự kiện Hoàng Sa 1974 (hay còn gọi là hải chiến Hoàng Sa) là sự kiện Trường Sa 1988 (hải chiến Trường Sa 1988), cũng như sự kiện bãi Vành Khăn 1995.
Tháng 1/1947, Trung
Quốc, lúc đó là chính quyền của quân Tưởng Giới Thạch đã đổ bộ lên đảo Phú Lâm
(Woody) của quần đảo Hoàng Sa. Phía Pháp lập tức phản đối việc chiếm hữu trái
phép này của Trung Quốc và cử một phân đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh
và xây trạm khí tượng.
Năm 1947, Pháp đề nghị
đưa vấn đề tranh chấp ra Trọng tài quốc tế nhưng Trung Hoa từ chối. Đến năm
1950, sau khi chính phủ của Tưởng Giới Thạch phải chạy ra đảo Đài Loan, quân
của Tưởng Giới Thạch rút khỏi đảo Phú Lâm (quần đảo Trường Sa). Tháng 10/1949,
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời. Tháng 5/1950, quân đội Quốc dân Đảng phải
rời khỏi các đảo Phú Lâm và Ba Bình (quần đảo Trường Sa).
Theo thạc sĩ Hoàng Việt,
lúc này, các trại đồn trú của Pháp vẫn được tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa. Đến
ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức chuyển giao cho Chính phủ Bảo Đại
quyền quản lý quần đảo này.
![]() |
Quan khách tham dự |
“Thủ hiến Trung phần
Việt Nam lúc bấy giờ là Phan Văn Giáo đã chủ tọa việc chuyển giao quyền hành
quản lý quần đảo Hoàng Sa. Đến năm 1954, 2 quần đảo này được đặt dưới sự quản
lý của chính quyền Việt Nam Cộng hòa”, ông Việt nhắc lại.
Tháng 4/1956, quân đội
viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, đội tuần tra của Pháp trên đảo Hoàng Sa
được thay thế bởi đội tuần tra của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.
Nhưng khi đó, chính
quyền Trung Quốc Đại lục đã bí mật cho quân đổ bộ chiếm phần phía Đông của quần
đảo Hoàng Sa (cụm An Vĩnh). Trong khi phía Tây, nhóm Lưỡi Liềm, còn gọi là
Nguyệt Thiềm vẫn do quân đội Việt Nam đóng trên đảo Hoàng Sa nắm giữ.
Quý cựu quân nhân |
Tới ngày 1/6/1956, ngoại trưởng Việt Nam Cộng hòa Vũ Văn Mẫu xác nhận lại chủ quyền của Việt Nam trên cả hai quần đảo. Ngày 22/8/1956, một đơn vị hải quân của Việt Nam Cộng hòa đã cắm cờ trên quần đảo Trường Sa và dựng bia đá.
Cho tới năm 1956 Pháp
chuyển giao lãnh thổ miền Nam Việt Nam cho Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa (VNCH)
và chính quyền này đã cho quân ra tiếp quản, tổ chức hai quần đảo về mặt hành
chính (lập ở mỗi quần đảo một xã thuộc một huyện ở đất liền), xây các bia chủ
quyền, duy trì các trạm khí tượng, khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở đây.
Từ nửa sau thế kỷ trước,
tình hình hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trở nên phức tạp hơn. Lợi dụng
tình hình rối ren khi Pháp rút khỏi Đông Dương theo Hiệp định Geneve năm 1954,
Trung Quốc đã bí mật chiếm đóng trái phép nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng
Sa vào năm 1956. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã kịch liệt phản đối các yêu
sách của Bắc Kinh.
Ngày 19/1/1974, Trung
Quốc đã dùng vũ lực chiếm các đảo do quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng, 64 sĩ
quan và binh sĩ Sài Gòn hy sinh, Trung Quốc chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa.
30 phút đấu pháo trong trận
hải chiến Hoàng Sa 1974
Đúng
10h25 ngày 19/1/1974, đại tá Hà Văn Ngạc ra lệnh tấn công các chiến hạm Hải
quân Trung Quốc nhằm tái chiếm Hoàng Sa. Hải pháo hai bên nã đạn trực tiếp
không ngừng.
Chuẩn bị cho trận chiến,
Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 1 duyên hải Việt Nam Cộng
hòa đã thành lập Hải đoàn đặc
nhiệm bảo vệ Hoàng Sa, gồm các chiến hạm và sĩ quan được bổ sung từ Bộ Tư lệnh
Hải quân tại Sài Gòn. Chỉ huy trưởng Hải đoàn đặc nhiệm là đại tá Hà
Văn Ngạc.
Các thập niên 1950, 1960 và 1970, Hải quân Mỹ thường tân trang chiến hạm cũ từ Chiến tranh thế giới thứ II rồi viện trợ cho đồng minh ở châu Á như Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa, Philippines… Vũ khí, hệ thống điện tử, hệ thống điều khiển của tàu viện trợ đều lỗi thời. Trong khi đó, Liên Xô, Trung Quốc và một số quốc gia Đông Âu đã trang bị cho hải quân theo quan điểm đổi tiện nghi, trang bị điện tử để lấy ưu thế về tốc độ, vũ khí và dùng những chiến thuyền nhỏ tấn công các chiến hạm lớn.
|
Trận chiến Hoàng Sa
diễn ra chủ yếu trong lòng của vùng đảo Nguyệt Thiềm, chiến hạm Trung Quốc nhỏ,
nằm sát mặt nước nên rất khó bắn trúng, đồng
thời dễ dàng nâng cao độ của hải
pháo, tạo thế tấn công hữu hiệu.
Hải pháo của chiến hạm Việt Nam Cộng hòa nằm trên cao so với hải pháo Trung Quốc nên khó xoay trở ở
cự ly gần. Hơn nữa, khi Mỹ chuyển
giao các chiến hạm cho Hải quân Việt Nam Cộng hòa,
các trang bị tối tân như pháo 76,2 ly bắn nhanh tự động với hệ thống radar kiểm
soát (radar control) và khóa mục tiêu (lock-on system) đã bị tháo gỡ hoặc không
còn sử dụng được.
Khẩu 127 ly trên các tuần duyên hạm của
Việt Nam Cộng hòa đều phải điều chỉnh bằng tay nên nhịp bắn rất chậm, chỉ hữu
hiệu trong việc yểm trợ hải pháo.
Trung Quốc có đủ tất cả
lực lượng hải, lục, không quân và tiềm thủy đỉnh (tàu ngầm) túc trực, sẵn sàng
tham chiến. Việt Nam Cộng hòa chỉ có chiến đấu cơ tốt nhất là loại F5E, tầm
hoạt động ngắn, đủ nhiên liệu bay ra Hoàng Sa rồi quay về mà không thể ở lại
yểm trợ hoặc chiến đấu.
Trước giờ khai hỏa
Diễn biến được coi là khởi đầu trận hải
chiến vào ngày 11/1/1974, khi Trung Quốc tuyên bố quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và
quần đảo Nam Sa (Hoàng Sa) thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Ngay lập tức, Ngoại
trưởng Việt Nam Cộng hòa Vương Văn Bắc lên tiếng bác bỏ lời tuyên bố vô
căn cứ và lên án hành động gây hấn của Trung Quốc. Từ thời điểm này, liên tục
có những diễn biến căng thẳng cả trên thực địa lẫn mặt trận ngoại giao đến khi
cuộc nổ súng bắt đầu.
Ngày
15/1/1974,
Hải quân Trung Quốc xâm phạm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam khi đổ bộ chiếm
đóng các đảo Quang Hòa, Duy Mộng và Cam Tuyền.
10h, HQ16 đi tuần tiễu phát hiện trên
đảo Cam Tuyền cắm cờ Trung Quốc và gần đó là một tàu đánh cá Trung Quốc
màu xanh xám, mang tên Nam Ngư, số 402, có đại bác 25 ly. Tàu HQ16 đã dùng quang
hiệu yêu cầu tàu Trung Quốc rời đảo nhưng tàu này không trả lời. Chiều cùng
ngày, tàu Trung Quốc mới rời khỏi đảo.
Ngày 16/1/1974, Ngoại trưởng Vương Văn Bắc gửi công hàm cho Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc để lưu ý tình hình căng thẳng nghiêm trọng, có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế, xảy ra bởi lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc.
Sáng sớm hôm đó, HQ16 đi tuần và phát
hiện trên đảo Quang Hòa có chòi canh, vọng gác cao gắn cờ Trung Quốc cùng một
chiến hạm Trung Quốc di chuyển quanh đảo. HQ16 yêu cầu tàu này rút lui nhưng
không có tín hiệu trả lời. Đảo Duy Mộng không có người nhưng có hai tàu
nhỏ của Trung Quốc ở gần bờ.
Trưa 16/1, HQ16 đưa 16 nhân viên cơ
hữu lên đảo Vĩnh Lạc để thám sát, phát hiện có mộ và bia đã đề chữ Hán. Lúc 15h35,
HQ16 ghi nhận tại Tây Nam đảo Cam Tuyền có hai tàu đánh cá Trung Quốc
được vũ trang đại bác 25 ly, mang số 402 và 407.
Ngày
17/1, Chính
phủ Việt Nam Cộng hòa gửi công hàm cho Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đề nghị
ban bố mọi biện pháp thích hợp để cải thiện tình hình.
Ads
by Trên
thực địa, lúc 11h, HQ16 hoàn tất đổ bộ đoàn 15 nhân viên cơ hữu lên tăng cường
giữ đảo Vĩnh Lạc. Nhóm này có nhiệm vụ phá hủy các tấm mộ bia và tổ chức phòng
thủ trên đảo.
15h cùng ngày, HQ16 đến đảo Cam Tuyền,
án ngữ tại phía Đông Nam để yểm trợ cho HQ4 đổ bộ 27 biệt hải lên phía Tây đảo
Cam Tuyền trong khi hai tàu Trung Quốc 402 và 407 đang ở phía Nam đảo Cam
Tuyền.
18h, HQ4 phát hiện hai tàu Trung Quốc
Kronshtadt 271 và 274 từ đảo Quang Hòa tiến về đảo Cam Tuyền. HQ4 đã dùng quang
hiện yêu cầu các tàu này rời đi, tàu Trung Quốc cũng dùng quang hiệu trả lời
rằng các đảo này thuộc chủ quyền của họ và yêu cầu chiến hạm Việt Nam Cộng
hòa rút lui. Tiếp đó, các tàu này chạy quanh HQ4 và di chuyển chặn đầu
chiến hạm, bất chấp quy tắc hàng hải quốc tế.
Ngày 18/1, một trong bốn tàu
Trung Quốc rời đảo Quang Hòa tiến về HQ4 lúc 4h30. Nhưng sau khi HQ4 tiến sát
tàu địch thì tàu này rút lui về phía đảo Quang Hòa. 8h45, HQ16 phát hiện thêm
một tàu Trung Quốc di chuyển phía Đông Nam đảo Duy Mộng. Trên đảo đã thấy
cờ Trung Quốc.
10h30, HQ4 hoàn tất đổ bộ đoàn 15 nhân
viên cơ hữu lên tăng cường giữ đảo Cam Tuyền và rút tất cả 27 biệt hải trở về
chiến hạm. Tàu Trung Quốc mang số hiệu 407 tiến về phía HQ16.
15h cùng ngày, Đại tá Hà Văn Ngạc và HQ5
đến Hoàng Sa. Hải đoàn gồm HQ4, HQ5, HQ16 tiến về Quang Hòa với hy vọng có thể
đổ bộ toán hải kích lên đảo. Hai tàu Trung Quốc 271 và 274 tiến tới chặn đường.
Hai bên liên lạc quang hiệu, xác nhận Hoàng Sa là lãnh hải của mình và yêu cầu
phía bên kia phải rời ngay lập tức. Với hành động cố tình chặn đường có thể gây
đụng tàu, Hải đoàn trở về phía Nam đảo Hoàng Sa, tiếp tục theo dõi chiến hạm
Trung Quốc.
19h15, HQ5 phát hiện thêm hai chiến hạm
Trung Quốc loại T43 cải biến mang số 389 và 396.
23h, Đại tá Hà Văn Ngạc nhận lệnh tái chiếm đảo Quang Hòa một
cách hòa bình. Vị Chỉ huy trưởng chia Hải đoàn ra làm hai phân đoàn đặc nhiệm: Phân đoàn một gồm HQ4 và HQ5 do trung tá Vũ Hữu San, chỉ huy với nhiệm vụ có mặt tại phía Nam và Tây Nam đảo Quang Hòa để đổ bộ hai toán hải kích và biệt hải. Phân đoàn hai gồm HQ10 và HQ16 do trung tá Lê Văn Thự chỉ huy với nhiệm vụ giữ nguyên vị trí trong lòng vùng đảo Nguyệt Thiềm để yểm trợ cho việc đổ quân. Nếu cuộc đổ bộ không thành thì các chiếm hạm sẽ dùng hỏa lực tiêu diệt hai chiến hạm chủ lực của địch (271 và 274), còn quân Trung Quốc sẽ là mục tiêu tấn công cuối cùng.
19/1/1974 - Cuộc
đấu pháo 30 phút
7h sáng, HQ5 đổ bộ 22 hải kích lên bờ
Tây Nam và HQ4 đổ bộ 27 biệt hải lên bờ Nam để tái chiếm đảo Quang Hòa nhưng
thất bại trước hỏa lực quá mạnh của Trung Quốc. Cũng trong thời gian này, tàu
Trung Quốc 402 và 407 tăng cường khoảng 2 đại đội lên bờ đông bắc đảo Quang
Hòa.
8h50 và 10h, Tư lệnh Vùng 1 Duyên hải
chỉ thị cho đại tá Hà Văn Ngạc tấn công tối đa vào các đảo. Nếu địch bắn phá,
dùng mọi khả năng để chống trả. Nhận thấy chỉ thị này sẽ bất lợi cho hải đoàn
vì chiến hạm địch có toàn lực trong lúc hải đoàn Việt Nam đang bị
phân tán nên đại tá Hà Văn Ngạc đề nghị Tư lệnh Vùng 1 Duyên hải cho triệt hạ
tàu địch trước. Tư lệnh đồng ý.
10h, Chỉ huy trưởng Hà
Văn Ngạc ra lệnh rút hải kích và biệt hải. Các phân đoàn chuẩn bị tấn công
tại các vị trí ấn định. Phân đoàn một gồm
HQ4 và HQ5 đối đầu với hai hộ tống hạm 271 và 274 tại phía Tây Nam đảo Quang
Hòa. Phân đoàn hai gồm HQ16 và HQ10 đối đầu với hai hộ tống hạm T43 là 389
và 396 tại phía Tây Bắc đảo Quang Hòa.
Cuộc tấn công của Phân
đoàn 2 gồm HQ16, HQ10 diễn ra ở phía Bắc đảo Quang Hòa. Đúng 10h25, đại tá Hà
Văn Ngạc ra lệnh tấn công các chiến hạm Hải quân Trung Quốc tại Hoàng Sa. HQ16
và HQ10 đứng yên, mọi ổ súng lớn, nhỏ từ mũi tàu ra sau lái đều nhắm bắn vào
tàu Trung Quốc. Hải pháo giữa chiến hạm hai bên nã đạn trực tiếp không
ngừng.
10h35, HQ10 báo cáo Đài chỉ huy trúng
đạn, Hạm trưởng bị trọng thương, hầm máy bị cháy và ngập nước. Hạm trưởng HQ16
ra lệnh cho Hạm phó HQ10 là đại úy Nguyễn Thành Trí lên thay quyền chỉ huy.
HQ10 vẫn tấn công ào ạt vào chiếc 396 của Trung Quốc đang tiến gần.
10h45, chiếc 389 bị trúng đạn bốc khói
mù mịt.
10h55, chiếc 396 bị bắn không điều khiển
được, đụng vào HQ10 rồi lại bật ra xa, bị trúng thêm đạn bốc cháy xoay vài lần
rồi dạt vào bãi san hô Tây Bắc đảo Duy Mộng. HQ10 cũng bị thiệt hại nặng nề, bị
trúng đạn và không thể điều khiển được.
Trong khi đó, HQ16 bị trúng đạn lạc của
HQ5, hầm máy bên phải ngập nước, vài phút sau, tàu bị nghiêng. Phòng vô tuyến
liên lạc truyền tin bị gián đoạn vì mất điện. Nhận thấy không thể tiếp tục tham
chiến, HQ16 rời khỏi lòng chảo, chạy về hướng Đà Nẵng.
11h10, HQ10 bị bỏ lại. Hạm trưởng và một
số nhân viên tử thương. Hạm phó ra lệnh đào thoát.
Cuộc tấn công của Phân
đoàn 1 gồm HQ5, HQ4 diễn ra ở phía Tây Nam đảo Quang Hòa. 10h25, hải pháo
76,2 ly của HQ4 ở sân mũi gặp sự cố ngay từ phút đầu tiên và phải chờ sửa chữa.
Việc này đã làm đảo lộn các dự tính của đại
tá Hà Văn Ngạc. Tuy vậy, HQ4 vẫn tận dụng hỏa lực còn lại, tiếp tục bám sát mục
tiêu của mình trong tầm đại liên.
10h40, khẩu 76,2 ly của HQ4 ở sân lái
sau bị hỏng bộ phận tấn công tự động nên phải điều chỉnh bằng tay,
bắn từng phát một nặng nề và chậm chạp. Đại tá Ngạc đã ra lệnh cho HQ4 rút lui
khỏi vòng chiến để sửa chữa và chỉ thị HQ5 yểm trợ cho HQ4 rút ra xa. HQ4 tuy
bị trúng nhiều đạn nhưng máy móc chính và hệ thống truyền tin vẫn điều khiển
tốt.
10h55, chiếc 274 bị
trúng đạn, bốc cháy và dạt vào bờ san hô phía Nam đảo Quang Hòa. Đa số súng
trên HQ5 bị trở ngại, trừ khẩu pháo 40 ly bên trái, máy siêu tần không còn liên
lạc được, máy truyền tin trên đài chỉ huy cũng bị trúng đạn bể nát, đại tá
Ngạc phải vào Trung tâm chiến báo dùng máy VRC46 để chỉ huy. Chiếc 271 được chiếc
389 tiếp trợ, hợp lực quay lại tấn công HQ5. HQ5 bị trúng nhiều đạn nhưng phản
công dữ dội khiến tàu địch thiệt hại nặng phải chùn lại.
Nhận được tin báo tăng
viện của địch sắp đến, với tình trạng HQ10 không thể sử dụng, HQ16 nước
vào hầm máy, tàu bị nghiêng, HQ4 và HQ5 trúng nhiều đạn chỉ còn hỏa lực rất hạn
chế, Chỉ huy trưởng Hải đội đặc nhiệm ra lệnh cho HQ5 rút lui về hướng Đông
Nam.
Hai tàu địch cũng bị hư hỏng nặng
nên rút về hướng Đông Bắc Hoàng Sa. HQ5 cùng HQ4 rút về hướng Đông Nam và tiến
về Đà Nẵng.11h10, ba chiến hạm của Hải quân Việt Nam Cộng hòa buộc
phải rút khi lực lượng tăng viện Hạm đội Nam Hải của Trung Quốc nhập
vùng (tàu hộ tống 281, 282 đến nơi sớm nhất, khoảng 30 phút sau khi Hải
quân Việt Nam Cộng hòa rút). 15 nhân viên cơ hữu thuộc HQ16 bị kẹt
lại đảo Vĩnh Lạc, 15 nhân viên cơ hữu thuộc HQ4 bị kẹt lại Cam Tuyền,
các đảo của Việt Nam chỉ còn lực lượng quân đội trú phòng vệ, không còn
hải pháo yểm trợ.
Toàn bộ quần đảo Hoàng Sa kể từ thời
điểm này rơi vào tay Trung Quốc.
Diễn
biến sau trận chiến Hoàng Sa 11h50 ngày
19/1/1974, hai chiến hạm tăng viện của Trung Quốc 281, 282 nhập vùng tiếp cứu
các chiến hạm thiệt hại và nhân viên Trung Quốc bị thương, thiệt mạng.
Hạm đội Trung Quốc tiếp tục sử dụng hải, lục, không quân tấn công và
chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa, bắt 50 tù binh (có 1 người Mỹ). Các tù binh
này sau đó được trao trả vào ngày 17/2. 14h15
ngày 19/1/1974, HQ4 và HQ5 được lệnh quay lại Hoàng Sa tiếp cứu nhân
viên đào thoát từ HQ10 đồng thời nhận được tin HQ16 sẽ được HQ6 hộ tống về Đà
Nẵng. 17h20
ngày 19/1/1974, HQ4 và HQ5 gần đến Hoàng Sa thì nhận được lệnh trở về Đà
Nẵng. 7h ngày
20/1/1974, HQ16 về đến vịnh Tiên Sa, cập cầu căn cứ hải quân Đà Nẵng. 7h30
ngày 20/1/1974, HQ4 và HQ5 cập cầu thương cảng Thống Nhất, Đà Nẵng. Trong
khi đó, ở trên bờ, 12h ngày 19/1/1974 Sư đoàn 1 không quân Việt Nam
Cộng hòa nhận được lệnh chuẩn bị cuộc hành quân đánh bom các
chiến hạm Trung Quốc tại Hoàng Sa. Sáng 20/1, Kế hoạch không tập
các chiến hạm Trung Quốc tại Hoàng Sa hoàn tất và lực lượng tham chiến thuộc
Phi đoàn 538 sẵn sang chờ lệnh. Trưa
hôm sau, kế hoạch dội bom các chiến hạm Trung Quốc tại Hoàng Sa bị hủy
bỏ. Hoa kỳ
nói gì trong trận chiến Hoàng Sa? Dựa theo các tài liệu đã giải mật của Hoa
Kỳ, BBC tóm lược các phản ứng của chính phủ Mỹ ngay tại thời điểm sự kiện vừa
diễn ra. Nhiều thông tin, quan điểm có thể đã bị những cứ liệu sau này vượt
qua, nhưng thông tin dưới đây phản ánh cái nhìn trong chính phủ Mỹ tại thời
điểm năm 1974: 18/1/1974: Cơ quan tình báo Mỹ
CIA gửi báo cáo nói Trung Quốc và Nam Việt Nam "có thể đã đụng độ"
ngày 16/1 vì Trung Quốc chiếm đảo Cam Tuyền trong khu vực Hoàng Sa. "Phía Nam Việt
Nam cũng nói rằng Trung Quốc đã đổ bộ lên hai đảo khác trong Nhóm Nguyệt
Thiềm của Hoàng Sa." Tài liệu của CIA ghi
nhận Bắc Kinh và Sài Gòn đều đòi chủ quyền Hoàng Sa, và có sự hiện diện quân
sự tại đây từ giữa thập niên 1950. Trung Quốc chiếm Nhóm Tuyên Đức ở phía
bắc, còn Nam Việt Nam chiếm Nhóm Nguyệt Thiềm ở phía nam. Báo cáo của CIA nhắc
lại trước đó Bắc Kinh và Sài Gòn chỉ duy nhất một lần va chạm vào năm 1959
khi "phía Nam Việt Nam bắt giữ các ngư dân Trung Quốc ở Nhóm Nguyệt
Thiềm". "Việc quan tâm
trở lại về sở hữu các đảo có thể xuất phát từ triển vọng tìm thấy dầu trên
đảo hoặc vùng nước xung quanh," CIA nói. 21/1/1974: Sau khi Trung Quốc
đã kiểm soát được toàn bộ Hoàng Sa, báo cáo của CIA ngày 21/1 thừa nhận thông
tin về diễn biến cuộc đụng độ vẫn "vô cùng sơ sài". Báo cáo này phân tích căng thẳng bắt đầu từ tuyên
bố tháng Chín 1973 của Nam Việt Nam khẳng định chủ quyền ở quần đảo Trường
Sa. "Ban đầu Bắc
Kinh bỏ qua tuyên bố này, nhưng đến ngày 11/1, họ phản ứng bằng tuyên bố bộ
ngoại giao tái khẳng định chủ quyền ở Trường Sa, Hoàng Sa và Bãi
Macclesfield." "Lần đầu tiên,
Bắc Kinh cũng chính thức đòi chủ quyền với "tài nguyên tự nhiên ở vùng biển
xung quanh" các đảo." "Cùng lúc này, Trung Quốc cũng đưa một số ngư dân đến Nhóm Nguyệt Thiềm, nơi mà theo phía Nam Việt Nam, những người này d ựng lều và cắm cờ Trung Quốc." "Vào lúc này,
Sài Gòn chuyển hướng chú ý từ Trường Sa sang Hoàng Sa." Báo cáo nói Sài Gòn
đưa hải quân ra Nhóm Nguyệt Thiềm, khiến các ngư dân Trung Quốc phải rút đi. 5 điều cần biết về đảo Tri Tôn Hoãn đêm diễn Nội Mông vì 'sự cố kỹ thuật' CIA nói Trung Quốc
"rõ ràng đã có chuẩn bị" cho diễn biến này. "Sau khi Nam
Việt Nam bắn vào ngư dân Trung Quốc trên đảo Quang Hòa ngày 16/1, Trung Quốc
đưa các đơn vị quân đội hướng về nam, can thiệp bằng lực lượng bộ binh và hải
quân khá lớn, cùng với không kích," CIA viết. 23/1/1974: Tại trụ sở bộ ngoại
giao Mỹ, Ngoại trưởng Henry Kissinger gặp ông Han Hsu, quyền trưởng phái đoàn
liên lạc của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Washington. Ông Kissinger nói
chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đang đưa nhiều thư phản kháng lên các tổ chức
quốc tế như SEATO và LHQ. "Chúng tôi
không dính líu đến các phản kháng đó," Ngoại trưởng Kissiger nói. Ông nói thêm:
"Hoa Kỳ không có lập trường trong việc ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Nam
Việt Nam tại các đảo này." 25/1/1974: Tại một cuộc họp khác, Đô đốc Thomas H. Moorer, Chủ tịch Hội đồng
Tham mưu liên quân, báo cáo: "Chúng ta đã tránh xa vấn đề." Ngoại trưởng
Kissinger hỏi lại: "Chúng ta chưa bao giờ ủng hộ tuyên bố chủ quyền của
họ [Nam Việt Nam]?" Đô đốc Moorer trả
lời: "Toàn vùng đó là cả vấn đề. Trường Sa và các đảo khác có cùng vấn
đề - đó là lãnh thổ đang tranh chấp. Chúng tôi đã ra lệnh tránh khỏi vùng
đó." Ông Kissinger hỏi
"Ai khởi đầu trận chiến ở Hoàng Sa?" Đô đốc Thomas H.
Moorer mô tả: "Một đội tuần tra của Nam Việt Nam trong khu vực phát hiện
một số tàu Trung Quốc tiến về các đảo; họ tiến đến và đưa khoảng 75 người lên
đảo Duncan (Quang Hòa). Đó là một trong các đảo phía nam của nhóm Nguyệt
Thiềm. "Họ phải đối
đầu với hai đại đội Trung Quốc. Phía Nam Việt Nam phải rút sang các đảo gần
đó. "Bốn tàu Nam
Việt Nam và khoảng 11 tàu Trung Quốc sau đó có trận hải chiến trong khi quân
Nam Việt Nam rút lui." Ngoại trưởng Mỹ hỏi
tiếp: "Phản ứng của Bắc Việt trước toàn bộ vụ việc là thế nào?" William Colby, Giám
đốc tình báo CIA, nói: "Họ bỏ qua, nói rằng nó nằm dưới Vĩ tuyến 17 và
vì thế không có ảnh hưởng đến họ. Nói chung, họ không đưa ra lập trường,
không theo bên nào." Ông William Smyser,
từ Hội đồng An ninh Quốc gia, nói thêm: "Nó đặt họ vào tình thế tế nhị.
Họ không nói gì cho đến khi đã xong chuyện, và rồi chỉ nói họ lên án việc
dùng vũ lực." Cuộc bàn luận tiếp
tục với trình tự như sau: "Ngoại trưởng
Kissinger: Tôi biết họ nói gì rồi, nhưng họ thực sự cảm thấy thế nào? Đô đốc Moorer: Tôi
nghĩ họ lo lắng. Ông Colby: Bắc Việt
có thể muốn có mỏ dầu tại đó. Ông Clements [Thứ
trưởng Quốc phòng]: Đừng quá mơ mộng về khả năng có dầu tại các đảo đó. Đó
vẫn là chuyện trên trời. Hiện chẳng có gì ở đấy cả, chỉ là tương lai thôi.
Hiện nay dầu hỏa ở đó không khả thi. Chỉ là tiềm năng. Đô đốc Moorer: Người Pháp nắm giữ các đảo trong thập niên 1930 cho đến khi Nhật chiếm trong Thế chiến. Năm 1955, người Pháp từ bỏ chủ quyền các đảo và Nhật đã làm như thế năm 1951. Nam Việt Nam và Trung Cộng kể từ đó cùng nhận chủ quyền. Philippines có tuyên bố yếu ớt, nhưng chỉ là trên giấy." Sau đó, Đô đốc
Moorer xác nhận lại với Henry Kissinger: "Chỉ thị của tôi là tránh xa
khỏi toàn bộ khu vực." 28/1/1974: Bộ Ngoại giao Mỹ gửi điện cho tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn,
nói rằng có một bản tin của UPI viết các tàu chiến Nam Việt Nam đã "bao
vây" Hoàng Sa, sau khi đã bị mất đảo về tay Trung Quốc. Bức điện nói
"lo lắng sâu sắc về rủi ro phía Việt Nam bày tỏ giận dữ về Hoàng Sa bằng
hành động quân sự phi lý với Trung Quốc". Bức điện yêu cầu Đại
sứ Mỹ tại Sài Gòn "kiềm chế" chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Tóm lại,trận chiến
Hoàng Sa với xác tàu HQ 10 hiện nằm dưới
lòng biển Đông cùng với Hạm Trưởng Trung Tá
Nguỵ Văn Thà và 74 lính Hải Quân cho thấy quyết tâm của người lính Hải
Quân VNCH luôn chiến đấu để bảo vệ hải đảo của đất nước. Và điều đó cũng nói
lên rằng Hoàng Sa của Việt Nam. Trong khi Quân Lực VNCH chiến đấu chống kẻ thù
xâm lược thì thời điểm đó Cộng Sản Bắc Việt đã toa rập cùng kẻ thù để ủng hộ
cho kẻ thù xâm chiếm biển đảo của nước ta. Cụ thể Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam
Phạm Văn Đồng đã ký công hàm (1958) công nhận chủ quyền Hoàng Sa cho Trung Cộng.
Hiện bây giờ Chính quyền Cộng Sản Việt Nam vẫn còn nhượng bộ để cho Trung Cộng
thao túng toàn bộ biển Đông chiếm tất cả các hải đảo chủ quyền mà không hề phản
đối mạnh mẽ. Sự phản đối của Cộng Sản Việt Nam theo các nhà nghiên cứu quan hệ
quốc tế chỉ là lấy lệ.Thật đáng buồn cho dân tộc Việt bởi có một nhà nước không
vì dân mà chỉ vì quyền lợi, lợi ích cho Đảng phái để rồi phải thần phục ngoại
bang. Duy Văn (Biên soạn) Tài liệu tham khảo *BBC News *Nghiên Cứu Biển Đảo
của Nguyễn Hùng Cường * Tư Liệu CIA *Tài liệu vầ Biển Đông
GS Hoàng Việt |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét