LIỆU KHI
NÀO THÌ CÓ MỘT TỔNG THỐNG NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT?
I.TỔNG QUAN.
A.Sự hình thành cộng đồng
người Mỹ gốc Việt.
Trước khi đi vào sự nhận
định nói về các dân cử người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi xin được định nghĩa về nhóm
từ “ Người Mỹ gốc Việt”. Tiếng Anh : ( Vietnamese Americans) dịch nghĩa nôm na là
những người định cư tại Hoa Kỳ có nguồn gốc Việt.
Theo số liệu của
Migration Policy Institute năm 2017 (Viện Nghiên cứu về Chính trị Di dân năm
2017) hiện nay người Mỹ gốc Việt sống rãi rác trên 50 Tiểu bang của Hoa Kỳ ước
khoảng 2.200.000 (hai triệu hai trăm ngàn) chiếm 0,65% tổng số dân Hoa Kỳ.
Phần lớn người Việt di cư
đến Hoa Kỳ từ sau sự kiện 30 tháng 4 năm
1975, với những người nhập cư đầu tiên là những người tị nạn từ miền Nam ( Việt
Nam Cộng Hòa) được chính phủ Hoa Kỳ di tản. Tiếp theo là những thuyền nhân vượt
biên ra nước ngoài bằng đường biển.Kể từ thập niên 1990,những người định cư Hoa
Kỳ chủ yếu là đoàn tụ gia đình và trên căn bản chính trị.
Những khu vực có số dân
cư Mỹ gốc Việt khá đông như Quận Cam, California, San Diego, California, San
Jose, California, Houston, Texas, Austin, Texas.
Về tín ngưỡng phần lớn họ
theo các Tôn giáo như Phật Giáo, Công Giáo, Tin Lành, Phật Giáo Hòa Hảo và Cao
Đài Giáo.
Ngôn ngữ họ thường dùng
là Tiếng Việt và Tiếng Anh.
Cũng nên nhìn nhận một
cách đúng đắn về việc hình thành lịch sử người Mỹ gốc Việt. Trước năm 1975, rất
ít người hiểu và nghe về nhóm từ “ người
Mỹ gốc Việt “ này. Bởi lẽ trước năm 1975, những người Việt tại Mỹ là vợ hoặc
con của người lính Mỹ tham chiến tại Việt Nam hoặc là học sinh, thương gia đến định
cư ở Mỹ để làm ăn, số lượng này không đáng kể cũng theo tài liệu của Viện
Nghiên cứu Di dân trước năm 1975 ước khoảng 15 đến 18 ngàn người. Chỉ sau ngày
30 tháng 4 năm 1975 cộng sản Bắc Việt chiếm miền Nam thì làn sóng nhập cư tị nạn
đầu tiên bắt đầu. Vì lo sợ sự trả thù của cộng sản Bắc Việt.
Được biết làn song đầu
tiên rời Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa) vào mùa Xuân năm 1975 khoảng 125.000 đa số
là gia đình quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, dân cư thành thị, thành phần có học thức
hoặc có cộng tác với quân đội Hoa Kỳ được chính phủ Hoa Kỳ vận chuyển bằng máy
bay đến những căn cứ tại Philipines và Guam và sau đó di chuyển đến những trung
tâm tị nạn khắp nước Mỹ.
Hiện tượng di dân có tính cách đặc biệt này đã
làm cho một số dân phản chiến Mỹ chống đối và kể cả dân chúng Hoa Kỳ dường như
có ít sự hoan nghênh. Nhưng chính quyền thời đó là Tổng Thống Gerald Ford và một
số viên chức trong nội các của ông ủng hộ mạnh mẽ và đã thông qua Đạo Luật Di
Trú và Người Tị Nạn Đông Dương (Indochina Migration and Refugee Act) trong năm
1975 cho phép người Việt – Miên – Lào nhập cư đến Hoa Kỳ bằng một vị thế đặc biệt.
Những người Việt tị nạn được bố trí định cư rải rác khắp nước để giảm thiểu tác
động của họ đối với những cộng đồng địa phương và hạn chế hình thành những khu
vực tập trung dân thiểu số. Tuy thế, trong vài ba năm thì hầu hết người Việt tị
nạn đã tái định cư tại California và Texas khiến hai Tiểu Bang này có số người
Việt cao hơn cả.
Ở trại Chaffee nơi tạm cư
của người tị nạn năm 1975 có tấm bia ghi
sự kiện này “Để tìm cuộc sống, 50.809 người tị nạn Đông Dương đã đến trại Chaffee
từ 2 tháng 5 đến 20 tháng 12 năm 1975”.Và thời điểm này
được xem là đợt di cư lần thứ nhất.
*Khi Cộng sản chiếm miền Nam.
Chính quyền cộng sản đưa ra nhiều chính sách đàn áp dân miền nam như đưa thành
phần Quân, Cán, Chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đi tù ( cải tạo) lao động khổ
sai, chính sách kinh tế mới đưa những người dân thành thị đi vào rừng sâu nước
độc, chính quyền cộng sản lấy nhà cửa của dân chúng. Chính sách tàn ác của chế
độ cộng sản đối với người dâm miền Nam, đồng thời chiến tranh xảy ra giữa cộng
sản Việt nam và cộng sản khmer Đỏ dân chúng các tỉnh miền Nam giáp với
Campuchia thường bị Khmer Đỏ bắn giết thiệt mạng rất nhiều.
Sợ chiến tranh cộng với chính sách hà khắc đàn
áp chính trị của chính quyền cộng sản Việt nam nên năm 1976 người Việt bỏ nước
ra đi bắt đầu cuộc di dân thứ hai đến giữa thập niên 1980.
Hằng trăm ngàn người chấp
nhận vượt biên trong những chiếc ghe nhỏ chội, cực kỳ nguy hiểm trước những cơn
song bất thần của biển Đông. Nếu thoát được hải tặc Thái Lan, Campuchia hay những
cơn sóng lật úp thuyền, thoát khỏi cái chết. Họ thường đến các trại tị nạn Thái
Lan, Singapore, Hong kong, Indonesia hoặc
Philippines hầu để định cư nước thứ ba.
Năm 1980, Quốc Hội Hoa Kỳ
thông qua Đạo luật Người Tị Nạn ( Refugee Act of 1980) giới hạn việc nhập cư,
trong khi đó chính quyền cộng sản Việt nam chấp nhận chương trình ra đi có trật
tự (Orderly Departure Program ODP) do Hoa Kỳ đề xuất dưới sự điều khiển của Cao
Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc ( United Nation High Commissioner for Refugees) do áp
lực quốc tế và như cầu đoàn tụ của nhiều người dân có thân nhân sinh sống tại hải
ngoại.
Chương trình này cho phép
một số người dân rời khỏi Việt nam một cách hợp pháp để đoàn tụ gia đình và những
đạo luật của Hoa Kỳ cho phép con cái của quân nhân Hoa Kỳ và những cựu tù nhân
chính trị (H.O) và gia đình họ cũng như
gia đình có con lai Mỹ được định cư tại Hoa Kỳ. Giữa những năm 1981 và 2000.
Hoa Kỳ tiếp nhận 531.310 tị nạn từ Việt nam.Thời điểm
này được xem là đợt di dân thứ hai.
B. Dân số người Mỹ gốc Việt
hiện nay.
Căn cứ theo Cục Điều Tra Dân
Số. Trước năm 1975 dân số người Mỹ gốc Việt ước khoảng 15.000 người. Năm 1980 có
khoảng 245.025. Năm 1990 có khoảng 614.547. Năm 2000 có khoảng 1.122.528. Năm 2007 có 1.508.489 . Năm
2010 có 1.737.000. Năm 2015 có 1.980.000 và năm 2024 có 2.200.000 người.
Người tị nạn Việt có tỉ lệ
nhập quốc tịch Mỹ khá cao. Theo cuộc khảo sát năm 2007 thì người Mỹ gốc Việt có
tỉ lệ 50,5% là nữ và 49,5% là nam giới và tuổi trung bình là 35,5% so với 36,7%
cho toàn bộ dân số Hoa Kỳ.
Tính theo thu nhập. Số tiền
thu nhập của người Mỹ gốc Việt hàng năm là 20.074 đô la , thấp hơn con số 26.688
đô la cho mỗi người Mỹ bản xứ.
Tính về trình độ học vấn.Người
Mỹ gốc Việt có tỉ lệ chưa tốt nghiệp trung học (26,7 %) cao hơn người Mỹ bản xứ
nói chung (15,5%) trong số những người trên 25 tuổi- bởi vì một số lớn người Việt
khi đến Mỹ đã đến tuổi lao động và cộng thêm tiếng Anh thì không rành. Nhưng số
người Việt có bằng Cử nhân (19,1%) thì cao hơn người Mỹ bản xứ nói chung
(17,4%). Những người Việt này phần lớn là sinh ở Mỹ hoặc đến Mỹ khi còn nhỏ tuổi.
C. Thái độ chính trị.
Theo Học Viện chính trị
Manhattan.Người Mỹ gốc Việt là một trong
những nhóm người nhập cư có chỉ số hội nhập chính trị cao nhất tại Hoa Kỳ.
Trong hội nhập về văn hóa và kinh tế không có gì đặc biệt so với các nhóm di
dân khác.
Người Mỹ gốc Việt là những
người tị nạn chính trị, xem việc về việt nam là bất khả thi .Tham gia chính
trị ở Hoa kỳ với tỉ lệ rất cao. Song
hành với việc nhập tịch cũng rất cao.Năm
2015 có 86% người Việt đủ điều kiện nhập tịch.
D.Lập trường chống cộng sản.
Nhiều
người Mỹ gốc Việt có quan điểm chống cộng rất mạnh, nhất là những người
từng tham gia quân lực Việt Nam Cộng hòa. Trong một cuộc thăm dò ý
kiến cho tờ báo Orange County Register năm
2000, 71% người trả lời là việc đấu tranh chống cộng là việc "ưu tiên hàng
đầu" hay "rất quan trọng" và 77% coi trọng việc thúc
đẩy chính phủ Việt Nam cải thiện chính sách nhân quyền. Người
Mỹ gốc Việt thường xuyên biểu tình chống chính phủ Việt Nam, lên án tình trạng
nhân quyền tại Việt Nam, và biểu tình chống đối những cá nhân hay đoàn thể mà
họ cho rằng ủng hộ chính quyền Việt Nam
Một
thí dụ cụ thể là vào năm 1999, một cuộc biểu tình rầm rộ nhằm
chống một người làm nghề cho thuê băng video tại Westminster tên là Trần
Trường khi ông này treo cờ đỏ sao vàng của Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam và một
bức hình của Hồ Chí Minh. Số người biểu tình lên đến 15.000
người trong một đêm, và cuộc phản đối này kéo dài 55 ngày đêm liên tục, gây nên
tranh cãi về vấn đề tự do ngôn luận tại Hoa Kỳ.
Trước
kia những đảng viên Dân chủ ít được người Mỹ gốc
Việt ủng hộ vì họ được xem là khuynh tả hơn, nhưng gần đây họ được nhìn bằng
ánh mắt thiện chí hơn bởi thế hệ thứ hai, giới trẻ hay những người có thu nhập
kém hơn. Tuy nhiên, Đảng Cộng hòa vẫn
giành số người ủng hộ áp đảo: tại Quận Cam số người Mỹ gốc Việt ghi danh theo
Đảng Cộng hòa cao gấp đôi số người ghi danh theo Đảng Dân chủ, với tỉ lệ là 55%
và 22%,và một cuộc thăm dò ý kiến toàn quốc cho thấy trong năm 2008 tỷ lệ người
Mỹ gốc Việt theo đảng Cộng hòa là 29% so với 22% cho đảng Dân chủ. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm
2004, 72% cử tri người Mỹ gốc Việt bỏ
phiếu cho ứng cử viên Cộng hòa đương nhiệm George W. Bush trong
khi chỉ 28% bỏ phiếu cho ứng cử viên Dân chủ John Kerry. Trong một cuộc thăm dò ý kiến cho cuộc bầu cử tổng thống năm 2008, 2/3 trong số các cử tri Mỹ gốc Việt đã chọn ứng cử viên
có ý định bầu cho ứng cử viên Cộng hòa John McCain.
Gần đây, nhiều nhóm người Mỹ gốc Việt đã vận động
trong Chiến dịch Cờ Vàng thành
công ở một số thành phố và tiểu bang với mục đích dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ
của Việt Nam Cộng hòa làm
biểu tượng đại diện cho cộng đồng người Việt tại địa phương. Tháng 8 năm 2006,
chính phủ tiểu bang California và Ohio đã thông qua đạo luật coi lá cờ này là biểu tượng cho
người gốc Việt ở địa phương. Chính phủ Việt Nam phản đối việc này và đây là một
trong những điểm gây ra bất đồng trong quan hệ Việt-Mỹ.
Đầu năm 2012, hơn 150.000 người Mỹ gốc Việt đã tham gia một
chiến dịch ký thỉnh nguyện thư khiến Bộ Ngoại giao Mỹ chú
ý. Kết quả của cuộc vận động nhân quyền lớn nhất từ trước đến nay của cộng đồng
người Mỹ gốc Việt là chính phủ Hoa Kỳ phái Thứ trưởng Ngoại giao là Michael Posner mở cuộc tiếp đón 165 người vào ngày 5 tháng 3 và cam kết sẽ tiếp tục đưa vấn đề nhân
quyền trong vòng đối thoại với chính phủ cộng sản Việt nam. Công văn hồi âm ghi
nhận rằng: Trong khi chúng tôi tiếp tục các cuộc đối thoại với phía cộng
sản Việt Nam, chúng tôi đặc biệt ý thức rất rõ lập trường của cộng đồng người
Việt tại Mỹ. Posner còn nhấn mạnh chính phủ Hoa Kỳ muốn tiếp tục trao
đổi ý kiến với cộng đồng người Mỹ gốc Việt.
Một số nhà hoạt động như ông Ngô Thanh Nhàn đã kêu gọi những người Mỹ gốc Việt khởi kiện những nhà
sản xuất chất độc da cam để đòi bồi thường, nhưng đã bị các tổ chức người Mỹ gốc
Việt từ chối. Nhiều cựu binh quân lực Việt Nam Cộng hòa và con cháu họ đang bị
mắc những chứng bệnh mà các cựu binh Hoa Kỳ từng bị nhiễm chất độc màu da cam mắc
phải, nhưng không có vụ kiện nào được thực hiện.
Những
người Mỹ gốc Việt này vẫn rất trung thành với nước Mỹ, họ cho rằng sự nguy hại
của chất độc màu da cam chỉ là một sự lừa bịp của Đảng cộng sản Việt Nam, và
việc khởi kiện chất độc da cam là sự tiếp tay cho hành động chống lại nước Mỹ.
Theo một số tổ chức cộng đồng như Ủy ban cứu Người vượt biển, việc chính quyền Hà Nội lên án quân đội Hoa
Kỳ rải chất độc màu da cam xuống Việt Nam là nhằm đánh lạc hướng những chỉ
trích về việc bắt giữ tù nhân chính trị. Cộng
đồng người Mỹ gốc Việt ở San Jose liên tục biểu tình Tòa lãnh Sự Cộng sản ở San
Franscisco hàng năm vào ngày Lễ Quốc Khánh của cộng sản Việt nam và đồng thời
biểu tình các nhân vật trong chính quyền cộng sản Việt nam công du qua Mỹ để
hợp tác thương mại với các công ty Hoa Kỳ.
Năm 2023,Cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong tiểu bang
California đã biểu tình Võ văn Thưởng chủ tịch nước Cộng sản Việt nam qua San
Francisco tham dự hội nghị APEC.
E.Vận động tham chính.
Nhiều người Mỹ gốc Việt đã tham gia vào các hoạt động chính
trị tại địa phương và được bầu hay bổ nhiệm vào các chức vụ như Đinh Đồng Phụng Việt,
trợ lý Bộ trưởng Tư pháp dưới chính phủ của Tổng thống George W. Bush; Cao Quang Ánh, dân biểu liên bang; Trần Thái Văn, Tạ Đức Trí,
dân biểu tiểu bang California; Janet Nguyễn, giám sát
viên Quận Cam; v.v.
Phần lớn các vận động chính trị của cộng đồng người Mỹ gốc
Việt qua các cơ quan công quyền vẫn còn lấy chủ nghĩa chống
Cộng làm trọng tâm.
Đáng kể là chuỗi biểu tình 52 ngày phản đối việc một người gốc Việt (ông Trần
Trường) treo cờ đỏ sao vàng và hình của Hồ Chí Minh đầu năm 1999 lôi kéo 15.000
người xuống đường. Sau cuộc tổng tuyển cử năm 2008, thành phố Westminster trở thành thành phố đầu tiên có đa
số thành viên trong hội đồng thành phố là người gốc Việt. Năm
2003, Tượng đài Chiến sĩ
Việt Mỹ (Vietnam War Memorial) đã
được xây dựng tại Westminster để tưởng niệm các chiến sĩ Việt Nam Cộng hòa và Hoa Kỳ đã hy sinh trong Chiến tranh Việt Nam.
Tháng 5 năm 2004, hội đồng thành phố Garden Grove,
tiểu bang California nhất thể bỏ phiếu thành lập khu vực "cấm những người
cộng sản" (No Communist zone) với chủ ý ngăn không cho các phái
đoàn nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công du vào vùng Little Saigon. Nếu muốn vào, luật thành phố đòi hỏi phái đoàn phải báo
trước 14 ngày để cảnh sát lo an ninh, nhưng đây cũng sẽ là thời gian để cộng
đồng địa phương tổ chức biểu tình chống phái đoàn.
Trong những tháng sau Bão Katrina, cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại New Orleans, một trong những nhóm người đầu tiên trở lại thành phố, đã
vận động chống đối việc thiết lập một bãi rác để chứa các mảnh vụn gần nơi cộng
đồng sinh sống. Sau nhiều tháng giằng co, bãi rác được đóng cửa, và cộng
đồng người Việt xem đây là một chiến thắng, trở thành một thế lực chính trị tại
đây. Năm 2008, luật sư Joseph Cao Quang Ánh,
một nhà hoạt động trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt tại New Orleans, thắng cử
ghế dân biểu thứ hai của Louisiana trong Hạ viện, trở thành người Mỹ gốc Việt đầu tiên
được bầu vào Quốc hội Hoa Kỳ.
II.SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT
Gần nửa thế kỷ khi người
Việt tị nạn cộng sản có mặt trên đất Hoa Kỳ đến nay. Người Việt đã sinh sống
quây quần và hình thành cộng đồng trên các thành phố của nhiều tiểu bang ở Hoa
Kỳ. Nhìn chung nhờ vào thể chế tự do dân chủ của đất nước Mỹ người Mỹ gốc Việt
dần dần tiệm tiến và đã đóng góp thành công cho nước Mỹ nhiều lãnh vực rất cụ
thể và thực tế.
A.Về chính trị.
Cộng đồng tị nạn người Mỹ gốc Việt có Bee Nguyễn đại diện đảng
dân chủ bang Georgia, Hubert Võ đại diên bang Texas, Janet Nguyễn Hội Đồng Giám
Sát Quận cam, Thượng nghị sĩ bang California ( Đảng Cộng Hòa), John Quốc Dương
Giám Đốc Điều Ha2nhsa1ng kiến của Tòa Bạch Ốc về người Mỹ gốc Á và dân các đảo
Thái Bình Dương (Đảng Cộng Hòa), John Trần thị trưởng đầu tiên tại Mỹ (Thị trưởng Rosemead CA), Jseph Cao dân biểu
người Mỹ gốc Việt đầu tiên trong quốc Hội Hoa Kỳ, De Le, cố vấn chính sách cao
cấp của Tổng Thống Trump, Kok Ksor chủ tịch Montagnard Foundaition, inc, Lan
Cao Giáo sư Luật, Tiểu thuyết gia, Jacqueline Nguyễn, Thẩm phán liên bang,(
người Mỹ gốc Việt đầu tiên trong Tòa Án Liên bang Hoa Kỳ), Joe Nguyễn Thượng
ngị sĩ bang Washington, Kathy Trần đại biểu Virginia, Madison Nguyễn phó thị
trưởng thành phố San Jose, Nguyễn Tâm, nghị viên thành phố San Jose, Nguyễn
Mạnh, nghị viên thành phố San jose, Diệp Thế Lân, nghị viên thành phố San Jose,
Biên Đoàn nghị viên thành phố San jose, Risk Trần, thị trưởng thành phố
Milpitas, Betty Dương luật sư Chánh văn phòng bà Cindy Chavez Giám sát viên
Quận Hát Santa Clara…..
Quận hạt Santa Clara, Mina Nguyễn Phó trợ lý Bộ trưởng đặc
trách vấn đề kinh doanh và liên lạc công chúng Bộ Tài Chính Mỹ, Mỹ Linh Thái,
Hạ viện bangWashington,Stephanie Murphy, dân biểu tiểu bang Florida, Tony Lam,Nghị
viên thành phố Wesminter, Trâm Nguyễn , dân biểu Tiểu bang Massachusetts, Trần
Văn, cựu dân biểu CA, Việt D Dinh,cựu Bộ Trưởng Tư Pháp thảo đạo luật yêu nước
của Mỹ,Amanda Nguyễn chủ tịch người sáng lập Rise,Dean Trần, Quốc Hội
Masachusettes, Andrew Đỗ Hội đồng giám sát quận Cam, J Peter Phạm Đặc phái viên
tại khu vực Sahel Châu phi ( Đại sứ) Đạt Trần, Quyền Bộ Trưởng Cựu Chiến Binh.
B.Về quân sự.
Về mặt quân đội, cộng đồng Việt tị nạn cũng hãnh diện có
được một số người Mỹ gốc Việt như Thiếu
Tướng Lương Xuân Việt Tư lệnh quân đội Mỹ - Nhật bản, Lapthe Plora, Thiếu Tướng
Lực lượng Đặc nhiệm hỗn họp,Brigadier General John Edwards, Không quân Mỹ, Huấn
Nguyễn,Phó Đô Đốc Hải Quân, Quang X Phạm, Sĩ quan Phi công Lực Lượng Thủy Quân
Lục Chiến, David Phạm, Sĩ quan cao cấp Thủy Quân Lục Chiến. Và có khoảng 50 cấp
Đại Tá và Trung Tá trong các Quân Binh Chủng Hoa Kỳ.
C.Về khoa học và giáo dục.
Về phương diện khoa học cộng đồng tị nạn Việt nam có Khoa
học gia Dương Nguyệt Ánh người chế ra bom áp nhiệt,Trang Thạch Hikman, chuyên
gia y tế công cộng và là học giả J. William Fulbright,Hồ Thành Việt người sáng
lập ra VNI Software Co.,California, Eugene H. Trịnh phi hành gia NASA, người Mỹ
gốc Việt đầu tiên du hành vào vũ trụ, Jane Lưu, nhà thiên văn học, người đồng
khám vành đai Kuiper và nhiều tiểu hành tinh, Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, giáo sư
kỹ thuật hàng không vũ trụ , Đại Học Michigan. Người Việt Nam đầu tiên nhận
giải thưởng Dirk Brouwer, Trịnh Xuân Thuận,nhà Vật Lý Thiên Văn, giáo sư Đại
học Virginia,Đàm Thanh Sơn,nhà vật Lý giáo sư Đại Học Chicago thành viện Hàn
Lâm Khoa học Quốc gia,Sơn Bình Nguyễn, giáo sư Hóa học tại Đại học Northwestern.
Và nhiều nhà khoa học và giáo sư trong ngành giáo dục hiện đang phục vụ cho
chính quyền Hoa Kỳ.
III. LIỆU KHI NÀO CÓ MỘT TỔNG THỐNG NGƯỜI MỸ GỐC VIỆT?
A.Không thể khả thi với thời gian ngắn.
Như đã chứng minh ở phần trên, gần nửa thế kỷ từ khi những
đợt di dân đầu tiên sang Hoa Kỳ, người Việt luôn phấn đấu cộng với tính cần cù,
siêng năng. Cộng đồng tị nạn người Việt đã có rất nhiều nhân tài trên mọi lãnh
vực và đã làm việc trong mọi ngành của chính quyền Hoa Kỳ.Vậy liệu trong bao
nhiêu năm nữa có một Tổng Thống người Mỹ gốc Việt?
Trả lời câu hỏi này,một số nhà nghiên cứu chính trị và
khoa học người Mỹ gốc Việt cho rằng khả năng đó không thể sớm xảy ra. Theo kỹ sư Tạ Trung, ngay cả so với một vài cộng đổng gốc
Á khác như người Mỹ gốc Ấn, gốc Hoa, gốc Nhật thì họ cũng đều đã đến nước Mỹ
trước cộng đồng người Việt từ rất lâu, và họ có sự đầu tư rất nhiều cho người
của họ vào các chức vụ khác nhau trong hệ thống chính trị Mỹ, ví dụ như Thứ
trưởng, Bộ trưởng… Người Việt mình chưa có, trước đây chỉ có ông Đinh Việt
(Đinh Đồng Phụng Việt) dưới thời của Tổng thống Bush là Thứ trưởng của Bộ tư
pháp. Mặc dù người Việt cũng có nhiều người rất giỏi, nhưng chưa có khả năng để
đầu tư lớn như vậy, nên mặc dù rất mong muốn, tôi nghĩ những cộng đồng khác sẽ
có Tổng thống Mỹ trước mình.
Kỹ sư Tuấn Nguyễn,
từng làm việc cho những công ty lớn như Ericsson Research Canada, HP (trước đây
là Tandem Telecom) và AMDOCS, trước khi trở thành Điều phối viên Gắn kết Cộng
đồng cho tổ chức Boat People SOS (BPSOS) từ năm 2017. Ông Tuấn “TQ” Nguyễn ra
tranh cử vào Thượng viện Hoa Kỳ đại diện cho Florida, với tư cách là một ứng cử
viên độc lập. Ông Tuấn
Nguyễn nhận xét, người Việt mình thường cho con đi học những ngành như bác sĩ,
kỹ sư, nhưng ít cho con đi học về chính trị, văn chương hay truyền thông, mà
truyền thông là cánh cửa rất lớn để chúng ta đem tiếng nói của cộng đồng mình
ra bên ngoài. Nói chung chúng ta hơi chú trọng một vài điểm nhọn thay vì phát
triển đều, toàn diện hơn.
Còn theo GS Nguyễn Đình Minh Quốc, nếu
nhìn vào lịch sử của nước Mỹ thì cộng đồng người Mỹ da đen đóng góp rất nhiều,
từ chiến tranh cho tới văn hóa, thể thao, vậy mà mấy trăm năm nay rồi, trải qua
bao nhiêu sự đấu tranh họ chỉ mới có được một tổng thống thôi, huống hồ tổng
thống gốc Tàu, gốc Nhật cho tới gốc Việt. Nhất là ở cái thời điểm này, nạn kỳ
thị, phân biệt chủng tộc sau một thời gian chìm lắng dường như lại bùng phát
trở lại trong xã hội Mỹ.
Điểm qua những khuôn mặt chính khách nổi bật của người Mỹ gốc Việt
từ trước đến nay, GS Nguyễn Đình Minh Quốc nhắc đến ông Cao Quang Ánh tức
Joseph Cao, đảng Cộng hòa, đại diện cho khu bầu cử quốc hội số
2 của tiểu bang Louisiana từ năm 2009 đến năm 2011, một người thực sự
có lòng, thực hiện đúng vai trò của một người dân biểu người Mỹ gốc Việt, tức
là bảo vệ cho cộng đồng Việt đồng thời quan tâm đến những vấn đề của Việt Nam.
Người thứ hai là bà Stephanie Murphy,
đảng Dân chủ, là phụ nữ gốc Việt đầu tiên và là người gốc Việt thứ hai trúng cử
Dân biểu Liên bang Hoa Kỳ, đại diện cho Ðịa Hạt 7 tại Florida từ năm 2017,
Bà Bee Nguyễn, đảng Dân chủ, ra tranh cử cho vị
trí ứng viên Secretary of State (tạm dịch Bộ trưởng Nội vụ) tiểu bang
Georgia. Tiểu bang Georgia hiện đã thông qua một số dự luật nhằm hạn chế, thắt
chặt quyền bầu cử, và do đó sẽ gây thiệt thòi cho người da đen (chiếm tới 23%
dân số ở đây, đông nhất trên toàn nước Mỹ), các dân tộc thiểu số và người nhập
cư. Nếu đắc cử, là một người tích cực ủng hộ quyền bầu cử, bà Bee Nguyễn
mong muốn sẽ giúp cho những cuộc bầu cử được công bằng.
B.Sự thành công của người nhập cư -
những câu chuyện chỉ có ở nước Mỹ.
Mặc dù tỷ lệ tham gia và giữ những chức
vụ cao trong chính trường của người Mỹ gốc Việt vẫn còn khiêm tốn so với nhiều
cộng đồng nhập cư khác, nhưng so với chính cộng đồng người Việt tại các quốc
gia khác thì vẫn là một sự thành công. Nhiều người Mỹ gốc Việt là Thẩm phán,
Chánh án tại các Tòa thượng thẩm địa phương, là dân biểu, hay tướng tá trong
quân đội như Thiếu tướng lục quân Lương Xuân Việt, vị tướng người Mỹ gốc
Việt có quân hàm cao nhất trong quân đội Hoa Kỳ, Nguyễn Từ Tuấn, Chuẩn tướng Hải quân, phó đề đốc người Mỹ gốc Việt đầu tiên
tại Hoa Kỳ…
Hầu hết họ là thuyền nhân, người tỵ nạn
buộc phải chạy trốn chế độ cộng sản trước và sau biến cố 30/4/1975, hoặc là con
em trong những gia đình như vậy, rời Việt Nam khi mới là đứa trẻ, vậy mà chỉ
vài chục năm sau họ đã vươn lên, đạt được những thành tựu như vậy. Nguyên do
chính là từ môi trường tự do, nhiều cơ hội của nước Mỹ, và do số lượng người
Việt đến Mỹ tỵ nạn nhiều hơn các quốc gia khác, trong đó có những thành phần ưu
tú từng làm việc trong bộ máy chính quyền Sài Gòn hoặc giữ những chức vụ cao trong
xã hội, nên bản thân họ hay con cái họ nhanh chóng hội nhập vào xã hội Mỹ. Phần
khác, do ảnh hưởng quan điểm chính trị từ gia đình, những người Mỹ gốc Việt
cũng thích tham gia vào quân đội hay chính trường để nối nghiệp cha mẹ hoặc để
phục vụ cho nước Mỹ.
Theo nhà báo Duy Văn, Chủ nhiệm báo
Modern Life Media online và là Chủ bút Tạp chí California Magazine. Hy vọng có
thể khả thi mơ ước được thì phải mất thời gian dài có khi người Việt phải sinh
sống và làm việc trên đất Mỹ nhiều thế hệ nữa.Khi đó cộng đồng người Mỹ gốc
Việt có những thế hệ con em sinh ra và
lớn lên tại đất Mỹ nhiều đời. Bởi theo
Hiến pháp Hoa Kỳ điều kiện tranh cử Tổng thống ứng cử viên Tổng thống Mỹ phải thoả mãn những tiêu chuẩn
bắt buộc do Hiến pháp nước này qui định: phải là công dân Mỹ, được sinh ra trên
đất nước Mỹ, tuổi từ 35tuổi trở lên, và cư trú tại Mỹ ít nhất 14 năm (điều kiện
“sinh ra tại Mỹ” hiện vẫn đang gây ra nhiều tranh cãi, bởi nó loại mất khá
nhiều người tài, song cho đến nay vẫn chưa có gì thay đổi). Hầu hết các ứng cử viên có quá trình
làm chính trị và đã đảm nhiệm những vị trí được chọn qua bầu cử, như nghị sỹ,
thống đốc, hay phó tổng thống.
Nhưng đôi khi họ cũng đến từ bên quân
đội, như cựu Tướng Dwight Eisenhower, hay là doanh nhân như ông Donald Trump,
một nhà kinh doanh bất động sản và ngôi sao truyền hình thực tế.
Hầu hết các ứng viên thời nay đều có
bằng đại học và trên nửa các tổng thống Mỹ học ngành luật.
Nước Mỹ chưa bao giờ bỏ phiếu cho một
tổng thống không theo đạo Thiên chúa hay một phụ nữ. Và chỉ có một tổng
thống, ông Barack Obama, là không phải người da trắng.
Đó là những điều kiện ràng buộc của luật pháp, chứ chưa nói
về tài năng, đạo đức. Đôi khi về sắc tộc nữa! Bên cạnh luật pháp qui định cố
hữu thì quá trình bầu cử cũng rất nhiêu khê.
Quá trình bầu cử gồm 2
giai đoạn: Giai đoạn bầu chọn các ứng cử viên của các Đảng gọi là bầu cử sơ bộ
(primary election) và giai đoạn chính thức bầu Tổng thống từ trong số các ứng
cử viên gọi là Tổng tuyển cử (general election).
- Giai đoạn bầu cử sơ
bộ: Đây là quá trình các ứng cử viên cạnh tranh trong nội bộ đảng mình, với mục
đích trở thành người đại diện duy nhất của đảng trong cuộc bầu cử. Giai đoạn
vận động tiến cử kéo dài từ tháng 1 đến tháng 6 của năm diễn ra cuộc bầu cử.
Ứng cử viên chiến thắng
trong cuộc vận động sẽ tiến cử chọn ra một người để lập liên danh cùng tranh cử
với mình.
- Giai đoạn Tổng tuyển
cử: Sau khi các đảng đã chọn xong đại diện của đảng mình làm ứng cử viên Tổng
thống cho cuộc bầu cử, ứng cử viên của các đảng sẽ tiếp tục vận động tranh cử
vào chức Tổng thống.
VI. KẾT LUẬN.
Căn cứ theo hiến pháp
Hoa kỳ và những điều lệ thực sự mà nói
thì dân thiểu số da màu rất ít khi có điều kiện trở thành nguyên thủ quốc gia
Hoa Kỳ. Chúng ta thấy rõ phần lớn Tổng Thống Mỹ là người da trắng độc tôn và
thường tôn giáo là phải là Thiên Chúa Giáo. Trên nguyên tắc ai cũng có quyền
ứng cử, nhưng đó chỉ là nguyên tắc. Hơn mấy trăm năm lập quốc và cho đến
nay,nước Mỹ đã có 46 vị Tổng Thống đều là người da trắng, ngoài trừ Tổng Thống
thứ 44 là ông Barack Obama là người da đen, nhưng cũng đã lai da trắng, bởi mẹ
của ông là người da trắng, như vậy theo nguyên tắc sắc tộc chỉ rõ ra chưa có
một sắc dân da màu nào nguyên thủy lại là Tổng Thống Mỹ từ khi lập quốc Hoa kỳ
cho đến nay. Và cũng chưa có một vị Tổng Thống nào không phải là là con chiên
của Thiên Chúa Giáo mà đắc cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Một điểm độc đáo nữa là phần
lớn Tổng thống Mỹ là người học luật. Họ thường là luật sư.
Lại nữa, muốn tranh cử
Tổng thống Mỹ thì ứng cử viên đó phải ở trong một đảng nào đó, chứ không có
đảng nào và ứng cử độc lập thường không thành công.
Hiện nay, nước Mỹ cò hai
chính đảng là Cộng Hòa và Dân chủ dù rằng cũng có nhiều đảng khác nhưng không
đáng kể. Trên nước Mỹ cũng có Đảng Cộng sản, nhưng không phát triển. Và cho đến
nay, nước Mỹ cũng chưa có người phụ nữ nào là Tổng thống mặc dù họ vẫn ghi danh
tranh cử chức vụ Tổng thống. Năm 2016 có bà Clinton ra tranh cử với ông Donald
Trump ,nhưng thất cử, hiện nay bà Niki Haley đang tranh cử với cựu Tổng thống Donald
Trump, nhưng dường như đã không được
đảng Cộng hòa đề bạt nên đã rút lui sau ngày bầu cử Supper Tuesday.
Tóm lại, là một nước Mỹ
có một danh tên khác là Hiệp Chủng Quốc nên cũng hy vọng thời gian tới đây nước
Mỹ sẽ có được một Tổng thống da màu nguyên thủy và có một nữ Tổng thống đúng
theo tinh thần Hiệp Chủng Quốc đã ghi
trong Hiến Pháp.
Duy Văn
Tài liệu tham khảo.
-BBC News
- Tự điển Bách khoa WKP
- Sự hình thành di dân
gốc Á (Theo Cơ quan Di dân Hoa Kỳ)