Chủ Nhật, 10 tháng 1, 2016

BIÊN GIỚI VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC QUA CÁC TRIỀU ĐẠI QUÂN CHỦ VIỆT NAM

Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương bắc trình bày cho rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di.”
Vua Lê Thánh Tông

Do thực tại địa lý, do hoàn cảnh nhân văn và lịch sử và do những quan niệm về chính trị, vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc là một vấn đề vô cùng phức tạp và tế nhị. Vấn đề này đã được đặt ra ngay từ những ngày đầu của lịch sử dân tộc Việt Nam và tồn tại cho đến tận ngày nay. Trong bài này người viết trình bày một cách tổng quát vấn đề biên giới Việt - Trung qua các triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, với nội dung gồm có ba phần: phần thứ nhất nói về tính cách phức tạp của biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc phần thứ hai nói về chủ trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ của các triều đại Việt Nam ở miền biên giới này và phần thứ ba dành cho một số những cuộc tranh chấp điển hình.

Bài này được viết nhằm cung cấp cho độc giả một vài sự kiện quan trọng và nhận định liên hệ tới nỗ lực của tổ tiên người Việt trong công cuộc giữ gìn và bảo vệ đất nước, một nỗ lực kiên trì, không ngừng nghỉ kể từ ngày lập quốc cho đến những ngày hiện tại.
Tính cách phức tạp của vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc 
Khi tìm hiểu vấn đề biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nhận xét đầu tiên người ta có thể đưa ra là cho đến thời kỳ Pháp thuộc, giữa hai nước không có đường biên giới như người ta quan niệm ngày nay mà chỉ có những vùng biên giới mà thôi. Đặc tính này bắt nguồn không những từ thực tại địa lý ở nơi tiếp giáp giữa hai quốc gia mà còn do những yếu tố nhân văn, lịch sử và quan niệm về chính trị của các triều đại trị vì nữa.

Trước hết là về địa lý. Giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc không có núi cao hay sông lớn có thể dùng làm ranh giới thiên nhiên. 
Những sông hay những núi được viện dẫn như những đường phân thủy chỉ là những đồi hay sông nhỏ, có khi chỉ được biết tới một cách mơ hồ và đã trở thành đầu mối của những tranh chấp. Điển hình là sự lẫn lộn hay cố tình lẫn lộn giữa sông Đổ Chú và một sông nhỏ khác ở thượng nguồn của sông Chảy trong vụ tranh chấp về biên dưới giữa hai châu Vị Xuyên và Thủy Vĩ thuộc trấn Tuyên Quang của Việt Nam và phủ Khai Hóa thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc vào năm 1728. Cũng vậy, với các núi Xưởng Chì hay Diên Xưởng, núi Tụ Long mà người viết dám chắc là các giáo sư sử địa hiếm người biết đến ngay cả nghe đến các địa danh này. Các rặng núi lớn có hình cánh cung ở phía đông của sông Hồng thay vì nằm ngang theo hướng tây - đông để làm ranh giới giữa hai nước lại xòe ra theo hình nan quạt và mở rộng về phía bắc khiến cho sự xâm nhập từ phương bắc xuống trở thành dễ dàng. Nhiều sông của Trung Quốc lại có nguồn từ trên đất Việt Nam hay ngược lại. Tính cách núi liền núi, sông liền sông của địa lý chính trị ở biên giới Hoa Việt này không những đã làm cho việc ngăn chặn các cuộc xâm lăng qui mô của người Tàu từ phương bắc xuống trở thành vô cùng khó khăn cho người Việt, mà còn làm cho ranh giới giữa hai nước không bao giờ ổn định.

Về phương diện nhân văn, miền biên giới Việt - Trung không phải là nơi cư trú của người Việt hay người Tàu mà là của nhiều sắc dân thiểu số của các miền núi như Tày, Nùng, Thổ, Mán... 

Những dân này đã ở cả hai phía, ranh giới cư trú thường không rõ ràng. Nhiều nhóm đã từ Trung Quốc di cư xuốngViệt Nam qua nhiều giai đoan lịch sử khác nhau. Những con số được ghi trong tác phẩm Địa Dư Các Tỉnh Bắc Kỳ của các soạn giả Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn và Phạm Văn Thư, xuất bản năm 1930 ở Hà Nội, dưới thời Pháp thuộc, có thể cho ta một khái niệm về tính cách thiểu số của người Việt cư ngụ ở miền này so với các dân miền thượng. Trước hết là ở tỉnh Lạng Sơn. Trong số 85.300 cư dân của tỉnh này, người Kinh hay người Việt chỉ có 3.120 người tức 4%, trong khi con số người Thổ là 38.900 người hay 36%, người Nùng là 37.500 người hay 44%, và người Hoa là 3.800 hay 4%.[1] Ở Cao Bằng, trên tổng số dân là 87.000 người, số người Kinh chỉ có 1.200 người hay 1,4%, còn người Thổ là 39.930 người hay 46%, người Nùng 38. 750 người hay 44%, còn lại là người Tàu. Còn ở Hà Giang thì trong tổng số dân là 69.600 người, người Kinh chỉ có 1.000 người, tức 1,4%, so với 20.600 người Thổ hay 31%, còn lại là người Lô Lô, 30%, người Mán, 14%... Các miền giáp ranh giữa các tỉnh này và các tỉnh miền Nam Trung Quốc do đó đã trở thành những vùng biên giới giữa hai nước. Sự tùy thuộc vào nước này hay nước kia một phần nằm trong tay các thổ tù trưởng tức các lãnh tụ của các dân địa phương và sự trung thành của họ từ đó tùy theo chính sách của chính quyền trung ương đối với họ.

Về quan niệm chính trị của các triều đình liên hệ, vì là những miền đất ở xa kinh đô của cả hai nước Hoa, Việt, các vùng biên giới này được coi như những miền đất cơ mi hay ky mi là những miền đất làm phên giậu cho triều đình trung ương.

Đây là một hình thức cai trị lỏng lẻo nhằm liên kết những miền đất xa xôi thay vì cai trị trực tiếp trong chế độ hành chánh thời cổ, ít nhất từ thời nhà Đường của Trung Quốc mà Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca đã tả rõ trong câu “Cơ mi các bộ man hoang ở ngoài.” Các thổ tù trưởng do đó được cha truyền con nối cai trị lãnh thổ riêng của mình với điều kiện tuân phục triều đình trung ương. Vượt lên trên các địa phương, quan hệ giữa các triều đình Trung Quốc và các triều đình Việt Nam cũng mang phần nào tính cách phong kiến của Á Đông theo đó Việt Nam chỉ là một chư hầu của Trung Quốc, lãnh thổ Việt Nam cũng là lãnh thổ Trung Quốc. Điều này thường được thể hiện qua lời nói hay các thơ văn của các sứ giả Trung Quốc khi được các vua Việt Nam hỏi thăm về sức khỏe sau những cuộc hành trình tới kinh đô Việt Nam. Việt Nam thường được người Tàu gọi là Giao Chỉ, hiểu ngầm là Giao Chỉ Quận, là một quận của nước Tàu qua tước phong các vua Tàu phong cho các vua Việt Nam là Giao Chỉ Quận Vương kể từ thời Vương Liễn nhà Đinh, kèm theo với danh vị Tiết Độ Sứ là một chức quan của người Tàu, kể cả sau khi tước vị An Nam quốc vương đã được phong cho vua Lý vào năm 1174 và Việt Nam chính thức trở thành An Nam Quốc và kéo dài rất lâu về sau này. Thái độ phong kiến luôn luôn coi Việt Nam là Giao Chỉ quận này đã giúp cho các hoàng đế Trung Quốc giữ được thể diện mỗi khi phải nhượng bộ và trao trả lại những đất mà họ đã chiếm của Việt Nam, vì theo họ, trong thiên hạ đất nào chẳng là đất của thiên tử. Rõ rệt nhất và gần với ta nhất là trong sắc văn của vua nhà Thanh viết vào năm Ung Chính thứ sáu, năm Bảo Thái thời Vua Dụ Tông nhà Lê (1728), gửi cho vua Việt Nam về việc trả lại vùng mỏ đồng Tụ Long cho Việt Nam, đoạn chính có viết: “Mới đây Ngạc Nhĩ Thái (Tổng Đốc Vân Nam và Quý Châu thời đó) đem bản tâu của quốc vương (vua Việt Nam thời đó) tiến trình, lời lẽ ý tứ trong bản tâu tỏ lòng cung kính, trẫm (vua Thanh) rất vui lòng khen ngợi. Vả lại, 40 dặm ấy nếu thuộc vào Vân Nam thì là nội địa của trẫm, nếu thuộc vào An Nam thì vẫn là ngoại vi của trẫm, không có chút gì phân biệt cả. Vậy chuẩn cho đem đất ấy ban thưởng cho quốc vương (vua Việt Nam) được đời đời giữ lấy.”[2] Nói cách khác sự phân chia biên giới giữa hai nước Hoa, Việt mang nặng tính cách lịch sử và quan niệm chính trrị cổ thời. Đó là những giới hạn có tính cách hành chánh nhiều hơn là phân ranh quốc tế.

Chủ trương và sách lược bảo vệ lãnh thổ ở các miền biên giới của các triều đại quân chủ Việt Nam:

Chủ trương này được xác định rất rõ ngay từ thời nhà Lý qua bài thơ Nam Quốc Sơn Hà được truyền tụng là của Lý Thường Kiệt và được khẳng định bởi các triều đại kế tiếp.

Trong bài Nam Quốc Sơn Hà tác giả đã khẳng định sự cương quyết của triều đình nhà Lý là sẽ không dung tha bất cứ kẻ nào dám xâm phạm vào lãnh thổ nước mình. Nhưng đó là một thứ tuyên ngôn nói với người ngoài, với kẻ địch, một kẻ địch lớn hơn và mạnh hơn gấp bội nước Việt Nam thời đó. Lê Thánh Tông, bốn thế kỷ sau, năm Hồng Đức thứ tư (1473), khi dụ Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy là người ở trong nước đã nghiêm khắc khẳng định: “Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vứt bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu họ không nghe, còn có thể sai sứ sang phương bắc trình bày cho rõ điều ngay, lẽ gian. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc thì tội phải tru di.”[3]
 Lời dụ này vừa là một nghiêm lệnh, vừa là một sách lược. Đó là không được nhượng bộ dù là nhượng một thước núi, một tấc sông, vì đó là của cha ông để lại, phải cương quyết tranh biện bảo vệ đến cùng không cho kẻ địch lấn dần ngay tự bước đầu ở mức độ địa phương. Nếu kẻ địch không nghe thì triều đình sẽ sai sứ sang biện bạch phải trái theo phương thức ngoại giao. Còn kẻ nào dám đem dù là một tấc đất dâng cho giặc thì không phải chỉ là bị tử hình mà thôi, mà còn bị tru di nghĩa là giết ba họ nữa. Đây là hình phạt nặng nhất của thời quân chủ, một tội dành cho những kẻ khi quân, phản quốc.

Thực thi chủ trương và đường lối kể trên, các nhà cầm quyền quân chủ Việt Nam đã phải cùng lúc đương đầu vừa với các thổ châu mục của mình, các quan lại địa phương Trung Quốc ở miền giáp ranh với những địa điểm tranh chấp vừa với triều đình Trung Quốc.
Đối với các thổ mục địa phương, các chính sách được dùng là vừa uyển chuyển, vừa khoan dung, phủ dụ, vừa kết thân, vừa cứng dắn, nghiêm khắc trừng phạt với mục tiên trước sau không đổi là giữ vững biên cương. Đối với các quan lại và triều đình Trung Quốc thì nhún nhường, khéo léo, lựa những danh sĩ thông minh, lanh lẹ, có tài biện luận, đồng thời kiên trì tranh đấu, không bỏ cuộc, cố gắng duy trì sự tranh chấp, không nhượng bộ để thiệt thòi cho nước mình hầu có thể đặt vấn đề lại sau này.
Để bảo đảm sự trung thành của các thổ mục địa phương, ngoài chính sách cai trị lỏng lẻo, để cho các châu mục cha truyền, con nối như các họ Hoàng, họ Vi, họ Nùng , họ Chu, họ Giáp, họ Thân, họ Hà, họ Đèo... tự trị trong các lãnh thổ của họ, các vua nhà Lý còn dùng hôn nhân để ràng buộc họ chặt chẽ hơn với triều đình trung ương, không phân biệt kinh thượng. Việc các vua nhà Lý gả các công chúa cho các châu mục miền núi đã được ghi nhận trong chính sử Việt Nam khá nhiều như năm 1029 Lý Thái Tông gả Công Chúa Bình Dương cho châu mục Lạng châu là Thân Thiện Thái, năm 1082, dưới thời Lý Nhân Tông, Công Chúa Khâm Thánh được gả cho châu mục Vị Long là Hà Di Khánh, năm 1142, dưới thời Lý Anh Tông, Công Chúa Thiều Dung được gả cho Dương Tự Minh là thủ lãnh châu Phú Lương, năm 1167, cũng dưới triều Lý Anh Tông, Công Chúa Thiên Cực đước gả cho châu mục Lạng Châu là Hoài Trung Hầu... Trước đó Tống Sử hay một sách khác thời nhà Tống cũng chép là tổ tiên của họ Thân, trước mang họ Giáp, là Giáp Thừa Quí lấy con gái của Lý Công Uẩn, tức Lý Thái Tổ, con Thừa Quí là Thiệu Thái, lại lấy con gái của Đức Chính, tức Lý Thái Tông, rồi con Thiệu Thái là Cảnh Long, lại lấy con Nhật Tôn, tức Lý Thánh Tông... Ngược lại, Lý Thái Tông lại chọn con gái Đào Đại Di ở châu Chân Đăng đưa về làm hoàng phi.

Đối với những lãnh tụ đã làm phản như trường hợp cha con Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao, các vua cũng tỏ ra rất khoan dung. Mở đầu, năm 1038, khi Nùng Tồn Phúc xưng đế chống lại triều đình , Lý Thái Tông thân chinh đi đánh bắt được Tồn Phúc đem về kinh xử trảm, con là Trí Cao và vợ là A Nùng chạy thoát được và trở về lập ra nước Đại Lịch, tiếp tục chống lại vào năm 1041. Lý Thái Tông lại thân chinh đi đánh, bắt được Trí Cao nhưng thương tình cha và anh đã bị giết nên không những tha cho về lại còn sai sứ đến tận nơi phong hàm thái bảo. Sau đó mẹ con Trí Cao lại xưng đế, làm phản, chống lại cả hai triều Tống ,Việt nhưng cuối cùng bị đánh thua phải bỏ chạy sang nước Đại Lý rồi chết ở đó. Hai lần làm đại nghịch nhưng các triều đình Việt Nam đương thời và sau này vẫn tỏ ra rất khoan nhượng với họ Nùng và những người liên hệ, bằng cớ là ở Cao Bằng các vua Việt Nam vẫn để cho người địa phương lập đền thờ cả hai mẹ con Nùng Trí Cao. Hai đền này nằm trên hai ngọn núi trong số bốn ngọn bao bọc chung quanh tỉnh Cao Bằng là núi Kỳ Cầm ở phía bắc (đền thờ Nùng Trí Cao), và núi Kim Phả ở phía đông (đền thờ A Nùng, gọi là dền Bà Hoàng), cho đến năm 1930 hãy còn. Chính sách được goi là hòa thân này cộng thêm với vị trí gần gũi với kinh đô Thăng Long của người Việt hơn là kinh đô của người Tàu và chắc chắn các đường tiếp tế các sản phẩm của miền đồng bằng và miền biển, nhất là muối từ châu thổ Sông Hồng chắc chắn đã là những tác tố vô cùng trọng yếu của sự trung thành của các châu mục với các triều đình Việt Nam hơn là với triều đình Trung Quốc.
Trong cách tranh biện để bảo vệ lãnh thổ quốc gia, người ta thấy công tác đã được thực hiện ở hai cấp địa phương và trung ương. Ở địa phương các thổ mục đóng vai trò chính yếu. Vì là người địa phương, họ nắm vững tình hình từ địa lý thiên nhiên qua từng con sông, từng ngọn suối, từng trái đồi, từng cột mốc... đến tình hình dân cư với những ruộng nương, nhà cửa, đền thờ của họ, biết rành rẽ hơn những quan lại được cử từ miền xuôi lên. Không những thế, vì được tự trị, những lãnh thổ được trao cho họ được họ coi là phải cẩn trọng giữ gìn. Chỉ đến khi cần phải tranh luận phải trái giữa hai triều đình trung ương, vai trò của các nhà trí thức, các sứ thần mới được đặt ra.
 
Một số những cuộc tranh chấp điển hình:
Với chủ trương bảo vệ từng thước núi, từng tấc sông, các triều đại quân chủ Việt Nam một mặt đã cương quyết đấu tranh để bảo vệ những phần đất đã có, mặt khác đã kiên trì đòi lại những lãnh thổ đã bị Trung Quốc cưỡng chiếm, ngoại trừ hai trường hợp nhượng đất quá nhiều dưới thời Hồ Quí Ly hay dâng đất dưới thời Mạc Đăng Dung. Cả hai trường hợp này, đặc biệt là trường hợp Mạc Đăng Dung, những người chủ trương đã bị hậu thế lên án nặng nề. Cả hai triều đại này đều bị gọi là ngụy, không phải chỉ vì có nguồn gốc là do sự thoán nghịch mà ra mà còn là vì những hành động bị coi như là phản quốc nữa. Sử gia Trần Trọng Kim trong Việt Nam Sử Lược, đã viết về Mạc Đăng Dung như sau:
 “”Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quí cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ.... Cho nên dẫu có lấy được giang sơn nhà Lê, dẫu có mượn được thế nhà Minh bênh vực mặc lòng, một cái cơ nghiệp dựng bởi sự gian ác hèn hạ như thế thì không bao giờ bền chặt được. Cũng vì cớ ấy cho nên con cháu họ Lê lại trung hưng lên được”.[4]

Trên bình diện tích cực, trong phần cuối của bài này, ta nhìn lại ba trường hợp điển hình trong đó các vua quan Việt Nam nói riêng, và người Việt Nam nói chung, đã tỏ ra hết sức kiên nhẫn và cương quyết trong công cuộc bảo vệ biên cương của nước mình. Đó là là các cộc đấu tranh để đòi lại châu Quảng Nguyên, các châu Vật Dương, Vật Ác thời nhà Lý và vùng mỏ đồng Tụ Long trong những giai đoạn sau này.

Quảng Nguyên là tên cũ của một châu thuộc tỉnh Cao Bằng, từ thời nhà Lê được đổi thành Quảng Uyên. Dưới nhà Lý, để trả đũa việc Lý Thường Kiệt và Tôn Đản sang đánh các châu Khâm, châu Liêm và châu Ung thuộc các tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung Quốc vào năm 1075, năm 1076 nhà Tống sai Quách Quì sang đánh Đại Việt . Bị quân Đại Việt chống trả kịch liệt lại không hợp thủy thổ, quân Tống bị thiệt hại nặng nề phải rút lui, nhưng vẫn giữ các châu Quảng Nguyên, Tư Lang, Tô, Mậu và huyện Quang Lang. Trong số các châu huyện này Quang Lang và Quảng Nguyên là quan trọng hơn cả vì Quang Lang, sau này được nhà Lê đổi là Ôn Châu là cổ họng của châu Ung, còn Quảng Nguyên là nơi có nhiều mỏ vàng và mỏ bạc. Để thu hồi lại hai châu này, nhà Lý đã dùng cả quân sự lẫn ngoại giao. Huyện Quan Lang đã được Lý Thường Kiệt chiếm lại không lâu sau đó, có lẽ cùng lúc với các châu Tô Mậu và Môn. Riêng châu Quảng Nguyên, việc đòi lại phức tạp hơn vì khả năng sản xuất vàng bạc của địa phương này. Ở đây đường lối ngoại giao đã được sử dụng. Hai lần nhà Lý đã sai sứ bộ sang thương nghị. Lần thứ nhất không thành công vì các quan địa phương nhà Tống viện cớ lời biểu của vua Lý có dùng có dùng chữ húy của triều Tống không nhận. Lần thứ hai, sứ bộ do Đào Tông Nguyên cầm đầu, đem theo năm con voi làm đồ cốngvới lời yêu cầu nhà Tống trả lại các đất quân Tống đã chiếm. Nhà Tống ưng thuận với điều kiện nhà Lý trả lại tất cả những dân các châu Khiêm, Liêm và Ung đã bị quân của Lý Thường Kiệt và Tôn Đản bắt về Đại Việt trước đó. Nhà Lý ưng thuận và Quảng Nguyên đã trở về với Đại Việt. Sự hoàn trả Quảng Nguyên cho Đại Việt đã làm cho nhiều người bên nhà Tống bất mãn. Hai câu thơ châm biếm: “Nhân tham Giao Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim” có nghĩa là vì tham voi Giao Chỉ nên mất vàng Quảng Nguyên mà các tác giả Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca dịch sang thơ là “Tham voi Giao Chỉ, mất vàng Quảng Nguyên” đã được họ làm trong trường hợp này. Thắng lợi này xảy ra vào năm 1079 dưới thời Lý Nhân Tông.

Thành công trong việc đòi lại châu Quảng Nguyên và một số đất khác ít năm sau, Việt nam đã không thành công trong việc đòi lại các động Vật Dương, Vật Ác từ trước đã bị các thổ mục họ Nùng dâng cho nhà Tống, mặc dầu sứ bộ nhà Lý do Lê Văn Thịnh, vị thủ khoa của khoa thi đầu tiên của người Việt cầm đầu đã tranh luận gay gắt. Phản bác lại chủ trương của các quan nhà Tống cho rằng các đất nà là của Tống vì do các thổ mục địa phương dâng cho nhà Tống vì họ qui phục nhà Tống., Lê văn Thịnh lý luận rằng “Đất thì có chủ; bọn thuộc lại giữ đất đem dâng nộp và trốn đi, thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Coi giữ đất cho chủ lại tự ý lấy trộm tất không tha thứ được, mà ăn hối lộ và tàng trữ của ăn trộm pháp luật cũng không dung. Huống chi, bọn chúng lại có thể làm nhơ bẩn cả sổ sách của quí vị hay sao?” 

Không những quyết tâm bảo vệ lập trường, các vua quan Đại Việt còn tỏ ra rất kiên trì. Các cuộc thương nghị đã diễn ra cả thảy sáu lần những đều bị nhà Tống khước từ, cuối cùng đã bị bỏ dở.
Thắng lợi trong việc đòi lại được mỏ đồng Tụ Long xảy ra vào năm 1728, năm Bảo Thái thứ 9, thời Vua Trần Dụ Tông. Thắng lợi này có thể coi là điển hình nhất trong nỗ lực bảo vệ lãnh thổ của các triều đại quân chủ Việt Nam.

Để kết luận ta có thể nói là trong suốt mười thế kỷ tồn tại, các triều đại gọi là quân chủ Việt Nam đã luôn luôn quan tâm đến sứ mạng vô cùng thiêng liêng là bảo vệ lãnh thổ và chủ quyền lãnh thổ của dân tộc. Đây là một việc làm vô cùng khó khăn, trường kỳ và tế nhị, đôi khi nguy hiểm, trong đó từ vua quan, nho sĩ trí thức, hoàng phi, công chúa… đến các dân thiểu số ở các vùng biên giới xa xăm đều đã cùng nhau đóng góp cho nỗ lực chung. Điều đáng chú ý ở đây là trong chính sách hoà thân của các triều đình thời đó, các vua đã hy sinh luôn cả hạnh phúc cá nhân và gia đình của chính mình, đem các công chúa gả cho các thổ tù trưởng ở những vùng biên cương hẻo lánh, xa xôi vào lúc giao thông liên lạc còn vô cùng khó khăn, hiểm trở. Nỗi nhớ thương, đau đớn, xót xa khó có thể tưởng tượng là lớn lao đến chừng nào. Nói như vậy nhưng ta cũng không nên quên tình cảm và sự can đảm của các thổ tù trưởng miền biên giới dành cho Triều Đình Việt Nam. Giữa triều đình Trung Quốc, mạnh hơn, các thổ tù trưởng này đã lựa chọn triều đình Việt Nam và từ đó họ đã gặp phải không ít khó khăn. Cuối cùng là các nhà trí thức. Vai trò của những nho sĩ được trao cho trách nhiệm đi sứ để biện minh cho chủ quyền của nước mình cũng không phải là một việc làm đơn giản, dễ dàng, không vất vả và không nguy hiểm. Lời dặn dò gần như là cảnh cáo của Lê Thánh Tông dành cho Thái Bảo Kiến Dương Bá Lê Cảnh Huy năm Hồng Đức thứ tư (1473) được dẫn trên đây, đã nói lên điều đó. Nhưng cuối cùng thì, ngoại trừ một vài trường hợp hiếm hoi, họ đã thành công trong sứ mạng thiêng liêng, cao cả của mình khiến người sau khi đọc đến những đoạn này không chỉ kính phục mà thôi mà còn ngậm ngùi, thương xót nữa.
 
Phạm Cao Dương
Những ngày cuối năm 2015
 
[1] Đỗ Đình Nghiêm, Ngô Vi Liễn và Phạm Văn Thư, Địa Dư Các Tỉnh Bắc Kỳ. Hà Nội, Lê Văn Tân, 1930, in lần thứ tư, tr 61.
[2] Quốc Sử Quán Triều Nguyễn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, tập hai. Hà Nội: Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia, Viện Sử Học, Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 1998, tr. 468-469.
[3] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Tập II, Hoàng Văn Lâu dịch và chú thích. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã hội, 1993, tr. 462.
[4]Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, quyển II. Saigon: Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, 1971, tr. 17.
 

Xin cám ơn Bà Phạm Cao Dương đã chuyển bài.
Bài biên khảo của Giáo sư Phạm Cao Dương đang được trưng bày cho mọi người tham khảo tại blog sau đây:

Thứ Ba, 8 tháng 12, 2015

Thứ Tư, 11 tháng 11, 2015

Việt Tân : Những điều cần minh bạch .

EmailIn
BBT.-Điều lạ lùng nhất là người Việt nào hiện sống tại hải ngoại bị chụp mũ hai chữ Việt Tân thì lồng lộn chối bỏ, xem đó là điều sỉ nhục, là điều vu khống. Thế mà cho đến hôm nay vẫn có nhiều bác sỉ, kỷ sư, trí thức ...sĩ quan, công chức trong hàng ngũ quân cán chính VNCH vẫn đánh lận con đen… nhắm mắt làm những hành vi trác táng, vô lương tâm, bề ngoài không dám nhận mình là Việt Tân nhưng bề trong đã làm tay sai thực sự cho đảng Việt Tân, chỉ vì mấy trăm EUROS hàng tháng. Bọn chúng còn đôn đốc, cổ xúy tổ chức hội hè ca hát từ thiện.. .dưới danh nghĩa quốc gia chống VC, nhưng theo bài viết thố lộ của ông Phạm Văn Thành dưới đây, chính họ là đảng viên cao cấp VT, cố làm tay sai cho Việt cọng. Chúng chống VC nhưng lại tự do ra vào VN để phĩnh phờ đàn bà con gái, bỏ vợ bỏ chồng, đưa ra ngoại quốc địch vận.
Chúng tôi mong rằng đám người còn mơ con ma cà rồng VT hãy ráng dọc cho hết bài viết trong nuớc mắt của ông Pham Văn Thành. Bởi lẽ, không ai, không một nhân vật nào biết rõ chủ trương đường lối của đảng Việt Tân bằng ông Phạm Văn Thành, nguyên Phó Chủ tịch Ủy Ban Đông Tiến Âu Châu. Hơn ai hết, ông Phạm Văn Thành là một chứng nhân đích thực đã tiết lộ những sự kiện gian ác của đảng VT với đầy đủ bằng chứng cơ sở. Việc ông Thành dám ghi rõ địa chỉ cá nhân ông ta để mời đảng viên VT hay những ngưòi còn luyến tiếc VT, những ai có thắc mắc, hoặc nghi ngờ điều ông nói, đều có quyền đối chất trực diện. Việc này xưa nay, trong CĐVNHN chưa có ai làm như ông Phạm Văn Thành. Chúng tôi xin ghi nhận và chân thành cám ơn lòng dạ thành thật của tác giả.

Ba Cây Trúc.


Phạm Văn Thành (kiếng đen)
Việt Tân : Những điều cần minh bạch

Phạm văn Thành2015-11-11

14 juin 2013, 18:14 Phạm văn Thành, Đoàn viên thoát ly 1984/1988 Phó chũ tịch UB Đông Tiến Âu Châu(dưới quyền chủ tịch Cao Văn Muôn) . MTQGTNGPVN / Tiền thân VT . * Địa chỉ cư trú . 8 Quai de la Marne 77450 Conde Saint Libiaire . France .

Anh chị em quan tâm .
Tôi không có ý nhiều lời về những chuyện đã qua . Vì căn bản , những chuyện này tôi đã nói rồi , đã trình bày rồi . Từ năm 1993, khi còn bị giam giữ ở trại tù a20 , nghĩ đến những anh em đang dấn thân trong tổ chức có tên Mặt Trận QGTNGPVN (Việt Tân ) nên tôi cố gắng tập trung tin tức và mạo hiểm viết gơỉ ra hải ngoại , từ một nhà tù nổi tiếng tàn bạo nhất đất nước thời điểm 1993. Tôi đã nhận được gì sau lá thư định mệnh ấy ?
Người ta đã cột vào cổ tôi cái danh phận của một thằng an ninh tình báo đặc biệt của cộng sản! Người ta đã yêu cầu các cơ sở âu châu , phải ém nhẹm các thư từ , tài liệu do tôi gởi từ nhà tù để đến một số các địa chỉ (trong đó có các địa chỉ ở Hàlan ) và nhanh nhất phải gởỉ các tài liệu ấy về trung ương đảng VT, thay vì đem phổ biến ra công luận và các cơ quan nhân quyền quốc tế !Ngươì ta đã chỉ thị cho các cơ sỡ ấy hoàn toàn im lặng trong cuộc nổi loạn của tù chính trị A20 tháng 10 năm 1994 và chính trung ương của họ , vơí quyền lực truyền thông thống trị hải ngoai trong tay , đã im lặng trước sự kêu cứu thảm thiết của hơn trăm tù chính trị gào thét đòi “Nhân Quyền Cho Việt Nam” , “Tự do cho Việt nam” .
Ngưì ta loại trừ cả tên Phạm vănThành ra khỏi danh sách Tù Nhân Chính Trị VN (do MT/VT phổ biến với các cơ quan quốc tế , những bản danh sách này chỉ là một trò diễu dở vì danh sách hổ lốn do chính cs cung cấp , gồm 2/3 là tù hình sự ).Việc tháo tên Phạm Văn Thành ra khỏi danh sách đã bị chính cơ sỡ trưởng Việt tân tại Vương quốc Bỉ chính thức phản đối năm 1994 !
Người ta ấy là ai . Đó là Nguyễn Ngọc Bảo , Ủy viên Trung Ương Viêt Tân đặc trách Âu châu , chính danh phát ngôn với cơ sở Hàlan và với trực tiếp đảng viên Đặng Văn Bằng , một đảng viên đặc biệt phụ trách một mảng kinh tài quan trọng của VT Hoàng cơ Định trên lãnh thổ Tiệp Khắc giai đoạn 1991/1996 .

Năm 1999 tháng 7 tại San Jose tôi tham dự Diễn Đàn Công Luận , chính thức bạch hóa những chi tiết cụ thể đã đươc chắt lọc và trực tiếp tham cứu vớí những nhân lực Đông Tiến 1 và Đông Tiến 2 sống sót,  để minh định rạch ròi câu chuyện sống hay chết của Tướng Hoàng Cơ Minh . Một câu chuyện đã tàn phá toàn bộ mảng niềm tin của cộng đồng người Vượt biển tự do hải ngoại , vào bất kỳ tổ chức kháng cộng nào trong những thập niên ấy!
Câu chuyện đã cũ , viết lại ở đây sẽ có người bảo rằng tên Thành lèm bèm toàn chuyện xưa như …trái mít . Thưa rằng không có trái mít thì không có hột mít , không có cây mít . Đây là điều tự nhiên mà đứa trẻ nào cũng hiểu (và cần phải hiểu nếu đó là một đứa trẻ có cái đầu biết làm việc độc lập ).
Nguyên nhân nào đã đưa đến cung cách hành xử tàn nhẫn và ngu muội đến như vậy ? Người ta ở trong bối cảnh tù đầy , đã không còn liên hệ gì với tổ chức nữa , cung cấp một bản tin động trời để cảnh báo tổ chức rằng « HCM đã chết thật rồi ! Cái thằng đang còn sống là cái thằng mạo danh ! Đừng nghe thằng mạo danh ấy nữa mà tiền mất tật mạng …. » !
« Các cuộc xâm nhập về TIẾP NHẬN các cơ sở của các Ủy Ban Kháng Quản các cấp quân huyện … chỉ là trò lường gạt , đám về ở từ Thái qua Cam Bốt đã bị bắt ở Bactambang hết ráo rồi ! Vào tù mọi thằng VT bị bắt đều đã bị ép phải viết ra những báo cáo phát triển dối láo để hải ngoại tự sướng , nhún nhảy làm trò khỉ trên tờ báo Kháng Chiến để khi dân biết ra , niềm tin vào các lực lượng kháng chiến sẽ biến thành mớ lòng heo dài ngày không ướp muối ! ".
Các anh đã không nghe vì sao ? Vì sự thông minh của những cái đầu khoa bảng hay vì sự « chỉ đạo xuyên suốt » từ Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc do ma Hoàng Cơ Minh lãnh đạo ? Hay do đường dây đặc biệt của Lê Phú Sơn , người đã gây phân hóa nội bộ thượng tầng chiến khu 1986 đưa đến hai án tử hình cho bác sĩ Nguyễn Hữu Nhiều và ngươì lãnh đạo MT Dân tộc Tự Quyết Trần Tự Nhiên ?
Hoàng cơ Định , ông biết gì về chuyện này ? Ông chịu trách nhiệm thế nào về chuyện này ?
Lý Thái Hùng/Bùi Minh Đoàn ? Ông đủ dũng khí để đứng ra công luận thảo luận về những bản án tử hình các anh em Phục quốc quân hay không ? Vì sao họ đã chết ? Vỉ sao họ phải tử hình ? VT đã có một hành vi nào báo tử cho gia đình họ không ?
Tôi chỉ nêu ra đây một số trường hợp cụ thể , hiện có khá nhiều người ở hải ngoai và VN biết được và sẵn sàng làm nhân chứng , nếu các ông đủ đởm lược công khai một hội thảo với công luận .
Trần tự Nhiên ,nhân sĩ lãnh đạo một bộ phận MT dân tộc tự quyết Quốc nội.
Nguyễn hữu Nhiều , bác sĩ lãnh đạo một bộ phận MT Dân tộc tự quyết Quốc nội.
Lê Hồng Sơn
Đặng Thanh Phong
Lê Hồng (cưu tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 5 Nhảy Dù )
Phạm Chiến Công
Châu Tài.
Võ Sĩ Hùng (về từ Pháp ).
Chọn lựa con đường chiến đấu, rất nhiều đảng viên VT đã muốn trốn thoát khỏi căn cứ giai đoan 1984/1989! Vì sao ? Ai đã đi tuyển mộ họ vào khu chiến ? Ông Nguyẽn Văn Lộc hiện vẫn còn đang sống nhăn , ông cảm giác gì khi biết tin hàng loạt đảng viên VT đã phản bội dễ dàng ngay khi bị bắt tại Bactambang và đều đã làm các báo cáo phát triển cơ sở quốc nội theo theo sự chỉ đạo của an ninh cộng sản ?
Thời gian dù đã 20 năm , nhưng nhân chứng vẩn còn sống khá nhiều , để công luận thấy ra bản chất hành vi tuyển mộ của các ông . Người đi vào VN trong giai đoạn ấy không khác gì hành động « Kinh Kha vác kiếm sang Tần »…nhưng các ông đã đào luyện được những gì cho họ ? Tư tưởng trang bị được đến đâu ? Khả năng an ninh tối thiểu ở mức độ nào ? Tôi đã gặp họ , hầu hết . Đã lắng nghe họ , từ những tâm sự lúc khơi nguồn nhập cuộc cho đến khi bị bắt , bị tra tấn , bị viết báo cáo dối láo…và tôi bật ngửa về khả năng của họ ! Về vốn liếng mà VT trang bị cho họ ! Trong họ , nhiều người đã đi về Vn với một ý tưởng coi đấy là cơ hội trốn thoát khỏi căn cứ tàn bạo của VT tại Ubon ! Vậy mục tiêu dựng khu chiến của các ông là gì ?
Các ông là một dạng tội đồ . Đã phung phí nhân mạng của đại cuộc . Các ông gởỉ những người như vậy về VN để làm gì ? Tin tức nào từ VN đã làm cho các ông tin tưởng rằng các “Ủy Ban Kháng Quản” đã được thành lập và hoạt động rất tốt để các ông ào ạt gởỉ người về “tiếp quản “ ? Khả năng phối kiểm an ninh của các ông được đến đâu để đến nỗi tướng Hoàng cơ Minh chết đã chục năm , các ông vẫn TIN , vẫn NGHE chĩ thị của ông ta ? Hàng năm vẫn in thư chúc tết của “chủ tịch Hội Đồng Kháng Chiến Toàn Quốc Hoàng Cơ Minh “ gơỉ đồng bào hải ngoại ! Các ông là người hay các ông là ma ? Và ai sẽ có quyền hạch hỏi những việc làm ấy của các ông ? Vết nhơ nhuốc ấy các ông nghĩ rằng tự nhiên nó sẽ trôi vào quên lãng ư ? Vậy còn cái giá mà việc lường gạt ấy đã gây ra , làm tan tác bầy hầy một cộng đồng đoàn kết lẫy lừng của giai đoạn 1983… thì ai sẽ phải hứng chịu ? Ai sẽ phải chịu trách nhiệm ?
Chính hành động ấy đã làm chậm lại hàng mấy chục năm trường cho một mặt trận Diên Hồng hải ngoai! Trách nhiệm ấy , Việt Tân hôm nay phải chịu hoàn toàn !
Chớ đùa bỡn tiếp tục ! Hãy biết khiêm tốn lắng nghe những nhân chứng để nhìn ra những sai sót của mình .
Chúng tôi khuyến khích các ông làm những cuộc vận động dân chủ nhân quyền cho VN ở các nghị viện quốc tế . Đó gần như là một hành động trả nợ đối với những người đã nằm xuống mà cũng là hành động hối chuộc tội lỗi mình đối với đại cuộc .
Chúng tôi khuyến khích việc các ông chia sẽ tiền bạc với những anh em dân chủ ở nội địa ( dù chỉ là muối bỏ biển so với thu nhập hàng tháng của các ông , đến do tử số vốn người dân hải ngoâi đóng góp ), hãy dùng đảng viên của các vị ở hải ngoại để làm những việc ấy , thay vì dựa vào "NHỮNG CƠ SỞ TRONG NƯỚC CỦA VIỆT TÂN" .
Đối vớí tôi , tôi giữ nguyên ý tưởng đã phát biểu công khai với các ông và với công luận trước đây 13 năm , rằng CƠ SỞ VIẸT TÂN QUỐC NỘI , 80% là an ninh cs trá hình !
Khả năng của các ông đương nhiên không thể lựa lọc đâu là 20% nhân lực chính tâm và đâu là 80% bọn gỉa hình !!!
Đó là thành qủa của các ông đến từ hai cuộc xâm nhập xây dựng cơ sỡ quốc nội, 1985-1986 với đường Cambot Bactambang và 1991/1993 với đường Đông âu .
Đối với mạng lưới an ninh cộng sản , các ông vẫn chỉ là hạng bổn đồng ấu trong ván bài xâm nhập .Họ cần các ông . Họ đánh bóng các ông để mong các ông trở thành những miếng bánh mật ngọt ngào cho đàn ong đang khát nước hương ! Chuyện này , lịch sử đảng csvn đã rất thừa ; đáng tiếc là các ông kiêu căng không chịu nhìn xuống những bài học lịch sử ,từ Tâm Tâm Xã Hương Cảng , từ VN quốc dân đảng cho đến VN Cách Mạng Đồng Minh Hội , đến Phong trào Công giáo của Giám Mục Lê Hữu Từ và đến ngay cả các bài học của các lực lượng khách cự ở miền Nam sau 1975.
Các ông không chịu học , nên say sưa dâng người cho guồng máy đối phương …
Người của các ông cũng chính là người của đại cuộc , là vốn liếng của toàn dân, đó là lý do tôi lại lên tiếng chính thức sau 13 năm ròng rã bị các ông tận tình miệt thị . Trách các ông ư ? Cá nhân tôi đã kinh qua nhiều cuộc khổ nạn, hành động miệt thị bôi bẩn của các ông không thấm tháp gì so với đau khổ tôi đã nếm trải . Không đáng để phải nói rằng tôi đang tranh hơn , cãi cọ …với các ông .Tôi là một nhân chứng. Tôi cần làm tròn bổn phận nhân chứng của tôi , khi thấy hành vi của các ông còn xâm phạm vào kho vốn nhân lực của đại cuộc . Động lực khiến tôi phải viết đơn sơ rạch ròi là vậy. Công luận có tai mắt để phán xét và tôi tin ở sự sáng suốt của những người đang quan sát vì đại cuộc .
Đây là lời nói thẳng thắn dành cho các ông như Hoàng Cơ Định, Lý Thái Hùng/Bùi Đoàn, Nguyễn Kim Hườn, Nguyễn văn Lộc , Trần Xuân Ninh và Hoàng Nhựt Ngô Chí Dũng. Những người trách nhiệm trực tiếp đến nhân lực chiến khu Ubon kéo dài đến những hệ lụy hôm nay .
Nhũng tên tuổi khác , đối với tôi chỉ là hạng nhãi nhép. Không cần phải đôi co lý luận rườm rà tốn thời giờ chung .
Cũng y như lần công bố trước.Tôi xác định địa chỉ cụ thể và sẵn sàng đón đợi mọi sự bất thường đến tử bất cứ đâu .
Phạm văn Thành
Đoàn viên thoát ly 1984/1988
Phó chũ tịch UB Đông Tiến Âu Châu
(dưới quyền chủ tịch Cao Văn Muôn) .
MTQGTNGPVN / Tiền thân VT .

* Địa chỉ cư trú .
8 Quai de la Marne
77450 Conde Saint Libiaire .
France .
26.27.28 tháng 8 1993  , "tòa án ND tối cao". Vụ Án Đông Xuân.


Boerdeaux /Võ sĩ Hùng ( đứng) và kỹ sư NGuyễn Quảng Văn ( ngồi khoác khăn )...



"trình diẹn " cơ sở Bỉ và Hàlan để ..."củng cố tinh thần hai cơ sở Halan, Bỉ ..." !!!Thậm chí gặp gỡ giơí báo chí Bỉ quố



1999 San Jose .Tương phùng vơí NGô Tỷ, nguyên hạ sĩ quan Thiết Giáp VNCH, Sóc Trăng , cứ trưỏng cứ 84 UBON / Viet Tân 1986/88


Franfurt 1985 ( Nguyễn Kim vest trắng . Kỷ sư Nguyễn quảng Văn cạnh Nguyẽn Kim , cạnh Nguyễn Q Van là Võ sĩ Hùng , bị xử tử tại chiến khu Ubon 89/90 . Ngoài cùng là tác gỉ

xác định tư thế một cứ trưởng căn cứ chiến khu của VT .



1985 Đan mạch ,Trần quốc Hùng , ngày lên đường về khu chiến biên thùy Đông Dương ( ngươì đứng giữa hàng hai đội mũ 



Bạch hóa vụ xử tử Võ sư Võ Sĩ Hùng ...

Bí ẩn khủng bố ở Little Saigon

image
Nhà báo điều tra Adam Clay Thompson trong một cảnh quay.
Một nhóm sát thủ gốc Việt ở Mỹ biệt danh K-9 đã thẳng tay sát hại các nhà báo, đốt trụ sở và hăm dọa những ai dám thách thức giấc mộng khơi mào lại chiến tranh Việt Nam.

Từ giữa năm 1981 đến 1990, tổng cộng đã có 5 nhà báo gốc Việt từ bờ Đông đến bờ Tây nước Mỹ bị giết hại, nhiều người khác trong cộng đồng người Việt ở Mỹ bị hăm dọa và tấn công. Ai đứng đằng sau những hành động khủng bố này, và nghi vấn về cái chết của các nạn nhân vẫn là câu hỏi chưa có lời đáp bất chấp nhiều thập niên trôi qua.

22 giờ ngày 3/11 (tức 10 giờ ngày 4/11 giờ Việt Nam), chương trình truyền hình nổi tiếng Frontline (*) và trang tin điều tra ProPublica (**) trình chiếu bộ phim tài liệu điều tra mang tên Terror in Little Saigon (tạm dịch Khủng bố ở Little Saigon). Theo Đài truyền hình PBS của Mỹ, cuộc điều tra sẽ soi rọi ánh sáng vào một trường hợp khủng bố đầy bí ẩn trên đất Mỹ từng khiến Cục Điều tra Liên bang (FBI) “bó tay” trong nhiều thập niên qua.

image
“Từ vụ một biên tập viên ở Houston, bang Texas bị bắn chết tại nhà riêng – ông ta làm việc cho tờ báo có tên Tự do – đến vụ một chủ bút ở Quận Cam, bang California bị chết cháy bên trong văn phòng, chúng tôi muốn tìm hiểu những vụ giết hại dã man này và tìm ra câu trả lời”, theo nhà sản xuất kiêm nhà báo Adam Clay Thompson, người đã bỏ ra 2 năm lần theo những dấu vết còn lại của các vụ ám sát cách đây hơn 3 thập niên.

image
Giám đốc, biên kịch kiêm đồng chế tác là ông Rick Rowley, nổi tiếng với bộ phim điều tra từng được đề cử giải Oscar có tựa đề Dirty Wars (tạm dịch Những cuộc chiến bẩn thỉu). 

Hầu hết những vụ án mạng này không được giới truyền thông chủ lưu ở Mỹ chú tâm và các nạn nhân bị chìm vào quên lãng. “Thông thường, dư luận luôn bày tỏ sự giận dữ và đòi phải có câu trả lời trong những vụ sát hại dã man các nhà báo. Nhưng chưa từng có ai bị truy tố trong vụ sát hại các nhà báo Mỹ gốc Việt”, Giám đốc chế tác Rowley nói.

Biệt đội sát thủ K-9

 image
Dựa trên hàng ngàn tài liệu, bao gồm những hồ sơ vừa được FBI giải mật cũng như ghi nhận của cảnh sát, và hồ sơ di trú lẫn điện tín của Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA), Frontline và ProPublica đã tìm đến thân nhân của người bị hại, các cựu đặc vụ và những người Mỹ gốc Việt trên khắp nước Mỹ trong nỗ lực đòi hỏi công lý cho những người đã khuất.

Theo những gì thu thập được, cả 5 nhà báo bị sát hại đều làm việc cho những ấn bản báo chí tiếng Việt với số lượng phát hành nhỏ nhằm phục vụ cho cộng đồng di dân tại Mỹ sau năm 1975. Một điểm chung khác cũng được Frontline và ProPublica nêu rõ là nhiều ấn phẩm của các tờ báo này đều chỉ trích một tổ chức chống cộng khét tiếng gọi là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam” (gọi tắt là “Mặt trận”, tiền thân của tổ chức phản động Việt Tân).

image
Hoàng Cơ Minh
Trong bộ phim tài liệu Terror in Little Saigon, Frontline và ProPublica đã phanh phui một đường dây khủng bố trải dài từ các thành phố Mỹ như Houston và San Francisco đến những khu rừng rậm ở Đông Nam Á. Nhóm điều tra đã lần theo dấu vết và tìm ra những cựu thành viên tổ chức phản động này. Và chính 5 cựu thành viên đã thừa nhận rằng “Mặt trận” từng thành lập một đội ám sát bí mật có bí danh K-9 để thực hiện các vụ ám sát nói trên.

Đồng thời, các nhà báo điều tra cũng phát hiện những vụ ám sát mới, có thể liên quan đến nhóm này ở ngoài nước Mỹ.

Các nạn nhân của K-9

image
Bị ám sát năm 1981 tại San Francisco, California.
21/7/1981 : Nhà báo Dương Trọng Lâm, 45 tuổi, chủ bút tờ Cái Đình Làng, bị bắn chết tại San Franciso, bang California. Một nhóm đã nhận trách nhiệm vụ này, nhưng điều tra mới cho thấy K-9 mới là thủ phạm.

image
Bị ám sát năm 1982 tại Houston, Texas.
24/8/1982 : Nguyễn Đạm Phong, 48 tuổi, người sáng lập tờ Tự do tại Houston, bang Texas, bị ám sát tại nhà riêng.

image
Bị ám sát năm 1987 ở Quận Cam, California.
9/8/1987 : Phạm Văn Tập (bút danh Hoài Điệp Tử), 45 tuổi, biên tập của tờ tuần san Mai, thiệt mạng khi văn phòng của ông bị đốt vào sáng 9.8.

Bị ám sát năm 1989 tại Quận Fairfax, Virginia.
22/11/1989 : Đỗ Trọng Nhân, 56 tuổi, biên tập viên dàn trang cho tạp chí Văn nghệ Tiền phong, bị bắn chết trong ô tô riêng tại hạt Fairfax, bang Virginia.

image
Bị ám sát năm 1990 tại Quận Fairfax, Virginia.
22/9/1990 : Lê Triết, 61 tuổi, nhà bình luận của tạp chí Văn nghệ Tiền phong, bị bắn chết khi đang đỗ xe trước nhà riêng. Vợ của ông và một người qua đường cũng thiệt mạng trong vụ xả súng.

***
Đoàn Văn Toại

image
Nhà văn/nhà hoạt động.
Sống sót từ vụ bắn súng năm 1989 ở Fresno, California.




Phi Yến

 (*) Frontline là chương trình phát các loạt phim tài liệu điều tra nổi tiếng và được phát sóng dài kỳ nhất tại Mỹ. Chương trình đã giành được toàn bộ các giải thưởng uy tín trong lĩnh vực báo chí và truyền hình, bao gồm 75 giải Emmy.


(**) ProPublica là tổ chức truyền thông độc lập và phi lợi nhuận, chuyên ngành điều tra. Năm 2010, ProPublica là hãng tin trực tuyến đầu tiên đoạt giải thưởng danh giá Pulitzer.

Thứ Năm, 25 tháng 6, 2015

SỰ LỢI DỤNG DÂN CHỦ DƯỚI THỜI VIỆT NAM CỘNG HÒA .

.

Duy Văn - Hà Đình Huy

Sau hơn 40 năm , khi cộng sản Bắc Việt xé hiệp định Paris cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam, đưa ách cai trị độc tài, sắt máu đưa đến những hậu quả thật nghiệm trọng cho dân tộc. Cụ thể là hàng triệu người vì không thể sống nổi dưới  một chính phủ cộng sản tàn ác nên đã tạo mọi điều kiện để xa rời quê hương đất tổ ( mặc dù rất đau lòng phải xa quê hương) , qua đó đã có hàng trăm ngàn người đã vùi chộn thân xác dưới lòng đại dương hoặc trong rừng sâu núi thẳm để đổi lấy tự do – dân chủ. Tự do – Dân chủ thật đáng quý!
Biết giá trị của sự tự do là quí, nhưng lại có những phần tử, phần lớn là những người khoa bảng ( có học cao hiểu rộng) lại không quý trọng tinh thần Dân chủ – Tự do, vô tình hoặc cố ý đã lợi dụng tính Dân chủ và Tự do để tạo nhiều phiền toái, khó khăn cho một thể chế , một chính quyền họp hiến pháp trị,một quốc gia có đường lối nhân bản và khai phóng tự do tiến bộ hơn hẳn chế độ cộng sản . Đó là chính thể Việt Nam Cộng Hòa.
Thành phần khoa bảng đó là ai? Và họ làm gì, để gọi là lợi dụng tự do – dân chủ?
Họ là những nhà trí thức,có bằng cấp trong các ngành nghề ở miền Nam Việt Nam. Là những nhà báo, luật sư, giáo sư, kiến trúc sư, bác sĩ ……. (xin hiểu không phải là hầu hết các vị khoa bảng )
Ngược dòng thời gian, trước năm 1975. Dù đất nước có chiến tranh do cộng sản gây nên, nhưng người dân sống trong chế độ Việt Nam Cộng Hòa có cuộc sống thoải mái. Sự tự do đi lại, hội họp, biểu tình,sinh hoạt tôn giáo điều được hiếp pháp quy định rõ ràng. Thể chế Miền Nam có 3 quyền phân lập : Hành Pháp, Tư Pháp và Lập pháp để định cấu quyền hạn trong chính quyền đưa đến sự dân chủ toàn diện, khó độc tài.
Chính vì sự hình thành tam quyền phân lập, nên sự hiện hữu của nền dân chủ tại miền Nam trước đây được xem là sự tiến bộ của một quốc gia văn minh. Vì thế nên đã được đối phương ( cộng sản) khai thác triệt để. Nhất là 3 phương diện lập pháp ,tư pháp và báo chí .Cộng sản Bắc Việt qua tay sai “Mặt trận Giải Phóng Miền Nam” khai thác khía cạnh dân chủ hiến định của chính thể Việt Nam Cộng Hòa . Bọn chúng tổ chức nhiều mặt trận đánh phá chính quyền bằng nhiều hình thức.
Dựa vào ngành Lập pháp, Việt cộng móc nối những Dân biểu và Thượng nghị sĩ  đối lập trong quốc hội dùng diễn đàn quốc hội để chỉ trích tố cáo chính quyền ( Hành Pháp) nào là : tham nhũng, hối lộ, độc tài…… Đứng đầu thành phần này gồm có các Thượng nghị sĩ  Vũ văn Mẫu, Tôn Thất Đính, Hống Sơn Đông…..các dân biểu: Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn văn Binh, Lý Quý Chung, Trần văn Tuyên, Hồ ngọc Nhuận,Nguyễn ngọc Nghĩa,Nguyễn Phúc Liêm Bảo,Nguyễn công Hoan, Lý trường Trân,, Huỳnh ngọc Diệu, Kiều Mộng Thu, Lê Đình Duyên, Hổ văn Minh, Đinh xuân Dũng, Nguyễn văn Hàm…
Cơ quan an ninh VNCH thời đó đã biết dân biểu Nguyễn văn Hàm là một điệp báo của Ban An Ninh T4 đưa vào hoạt động trong quốc hội nằm sâu trong Khối Dân Tộc Xã Hội . Các dân biểu Hồ ngọc Nhuận, Kiều mộng Thu, Lý quý Chung….được xem là những dân biểu rất tích cực chống đối chính quyền hành pháp.( có tay trong là việt cộng móc nối)  Bộ phận an ninh đặc biệt cũng đã có cho khối An Ninh Hạ Viện biết những tin tức tình báo này, nhưng các dân biểu trong khối An Ninh không thể khống chế họ được trên diễn đàn ( cũng vì chế độ miền Nam có nhiều quyền tự do) Chính vì chế độ có quá nhiều quyền tự do được hiến pháp quy định, nên các ông / bà dân biểu, nghị sĩ được nhiều quyền hạn trong ngôn luận . Cho nên Khối Dân Tộc Xã Hội Hạ Viện, đứng đầu là dân biểu Trần văn Tuyên và các dân biểu Kiều mộng Thu, Hồ ngọc Nhuận, Nguyễn Văn Hàm, Lý quý Chung….đã tạo diễn đàn ở quốc hội là nơi tranh đấu cho nhóm, vô hình chung có lợi cho cộng sản.
Cụ thể qua cuộc biểu tình của cái gọi là “ Ký Giả Ăn Mày” do sự giật dây của cụm tình báo A 10 trong đó có dân biểu việt cộng là Nguyễn văn Hàm điều khiển ( qua xác nhận của ban T4, sau ngày miền Nam sụp đổ ). Cuộc biểu tình đã bị cảnh sát VNCH giải tán. Thế mà toàn bộ Khối Dân Tộc Xã Hội  Hạ Viện đã ra một tuyên cáo bênh vực hành động của đám “ Ký Giả Ăn Mày” và cho rằng sự can thiệp của chính quyền là phản dân chủ.
Tuyên cáo của khối Dân Tộc Xã Hội ( Theo Báo Đông Phương)
Sắc Luật phản dân chủ  cùng các biện pháp kềm kẹp khác đối với văn nhân ký giả.
KHỐI DÂN TỘC XÃ HỘI HẠ NGHỊ VIỆN long trọng tố cáo trước dư luận trong và ngoài nước về sự tráo trở của chính phủ sự thực thi các quyền tự do dân chủ một mặt thì phái đoàn chính phủ đã long trọng cam kết trả lại tự do báo chí, mặt khác lại gia tăng đàn áp hiện nay.
KHỐI DÂN TỘC XÃ HỘI HẠ NGHỊ VIỆN sẽ đẩy mạnh cuộc tranh đấu cho các quyền tự do dân chủ, trong đó có quyền tự do báo chí, là một bảo đảm cho các quyền tự do căn bản khác được trả lại cho toàn dân
Saigon ngày 4 tháng 9 năm 1974
Trưởng khối D.B Trần văn Tuyên
Các Dân biểu: Hồ ngọc Nhuận, Nguyễn ngọc Nghĩa, Nguyễn Phúc Liêm Bảo, Nguyễn công Hoan,Lý trường Trân, Huỳnh ngọc Diệu, Trần văn Thung, Trần ngọc Giao, Trần văn Sơn, Trần cao Để, Phan xuân Huy, Tư đồ Minh,Đinh xuân Dũng, Lê đình Duyên, Lý quý Chung, Kiều mộng Thu, Nguyễn văn Hàm, Nguyễn văn Phước,Nguyễn hữu Thời, Nguyễn Mậu, Nguyễn Phước Vĩnh Tùng, Mai ngọc Dược, Hồ văn Minh, Đoàn Mai , Phan Thiệp.
Có thể nói trong những năm 1974 và những tháng đầu năm 1975, ở quốc hội đặc biệt là Hạ Nghị Viện, các dân biểu Khối xã Hội hội thảo với nhau ở Phòng Khánh Tiết, liên tục đưa ra nhiều tuyên cáo, tranh đấu quyết liệt mà theo dân biểu thân cộng Lý quý Chung cho rằng là “ một cách chính đáng”” trong cuộc đấu tranh toàn bộ của nhân dân miền Nam chống lại tập đoàn độc tài, phát xít, tham nhũng và hiếu chiến” (ý nói đến chính phủ do Tổng thống Nguyễn văn Thiệu lãnh đạo)
Còn Dân biểu Nguyễn văn Binh chủ tịch “Ủy ban đấu tranh quyền tự do báo chí và xuất bản” là một dân biểu có nhiều liên hệ với nhóm người “ Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam” vào ngày 13- 9 1975 tại Phòng Khánh Tiết hạ Nghị Viện tuyên bố rằng” Đệ Tứ Quyền đang bị chính quyền bóp nghẹt cướp mất” ( Theo Báo Đông Phương) ( ý nói đến sắc luật 007 của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa về luật báo chí). Nên cần phải có sự liên kết tranh đấu.
Nghị sĩ Vũ văn Mẫu ( sau này là thủ tướng trong chính phủ của hàng tướng Dương văn Minh) cho rằng “từ bỏ báo chí là tự vất đi kim chỉ nam để mò trong bong tối và sa vào vực thẳm độc tài”
Cũng tại phòng Khánh Tiết Hạ Nghị Viện, dân biểu Nguyễn hữu Chung, nói: ” chúng ta đến đây ( Phòng Khánh Tiết Hạ Nghị Viện) không phải để ủng hộ chính quyền mà là để tranh đấu chống chính quyền ( ý chỉ ngành hành pháp) không tôn trọng pháp lý ….thì chúng ta cũng không cần phải tôn trọng.”
Sau một thời gian hội họp liên tục các “ ngài ” dân biểu, thượng nghị sĩ đã lập ra nhiều ủy ban để tranh đấu chống chính quyền như ủy ban hành động chống tịch thu báo chí với chủ tịch dân biểu Trần văn Tuyên, phụ tá là nghị sĩ Hà Thế Ruyệt….(Theo báo Đông Phương)
Sự tranh đấu của người đại diện cho dân (nghị sĩ - dân biểu) chống lại chính quyền (trong thời chiến) thật tế là một sự bất lợi vô cùng cho đại cuộc quốc gia dân tộc. Họ đã lợi dụng tính dân chủ của thể chế dân chủ Việt Nam Cộng Hòa,lợi dụng tính cách pháp nhân cá nhân là nghị sĩ – dân biểu họp pháp tranh đấu cho những mục tiêu nhắm ra làm tiêu hao phần nào tiềm lực công cuộc chống cộng sản của toàn Dân toàn Quân Việt Nam Cộng Hòa, một thể chế họp hiến mà chính họ đã góp phần sanh ra ( hiến pháp).
Với sắc luật 007 (về báo chí) trong thời chiến, chính phủ VNCH đưa ra không hẳn là đã dập tắt tiếng nói của giới báo chí . Nhìn nội dung của sắc luật 007 thực tế mà nói chỉ có giới hạn phần nào trong tự do báo chí mà thôi, ( dễ hiểu là trong chiến tranh, cần phải giữ kín phần nào về mặt quân sự , tình báo ….) Thế nhưng các “ ngài” dân cử trong quốc hội làm rùm beng lên như là chính quyền bóp cổ , bóp hầu hết tất cả các người làm báo thời đó.
Nhìn vào sự tranh đấu của họ, thấy rõ là chế độ miền Nam Việt Nam thật sự có dân chủ, nếu nói như họ rằng : chế độ miền Nam không có dân chủ độc tài sao họ được quyền hội họp , biểu tình tranh đấu. Sau khi tranh đấu , biểu tình…. Họ vẫn an toàn .Nếu so với chế độ cộng sản hiện nay họ có dám tranh đấu – biểu tình không? . Xin trả lời là không. Và nếu có xảy ra biểu tình ( trong chế độ cộng sản) chưa chắc họ đã an toàn . Họ sẽ bị “ hấp” sau đó, dù họ là đại biểu hay dân biểu.
Qua sự tranh đấu của các dân cử dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa trước đây mà họ gọi là tranh đấu cho nhân dân…,nhưng thật tế không phải cho nhân dân mà là làm lợi cho cộng sản, góp chung cùng bàn tay với cộng sản đưa đến sụp đổ miền Nam . Hãy điểm qua những dân biểu, nghị sĩ họ là ai? Sau khi chế độ miền Nam sụp đổ chúng ta mới thấy những bộ mặt của các “ ngài” dân biểu- nghị sĩ đứng đầu mọi cuộc tranh đấu là những người không ít thì nhiều có dính líu đến chế độ cộng sản như tên Lý quí Chung, Nguyễn văn Hàm, Vũ văn Mẫu, Hồ ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Ngô công Đức…..có người sau này trong chế độ cộng sản họ là đại biểu.
Còn trong ngành Tư pháp: Nói đến ngành tư pháp, mọi người liên tưởng ngay đến các cơ quan như Tòa án, Công Tố Viện….các ông Thẩm phán, Biện lý, Dự thẩm, Luật sư…..Đa số là những người hiểu biết về luật pháp quốc gia. Những người “ cầm cân nẩy mực” xét xử những vụ án hoặc những người đứng trước “ tòa” để cải những vụ án đem công lý về cho người dân. Để người dân thấy chế độ tốt và tin tưởng.Thiết tưởng với phần nhiệm như vậy, thì việc làm gì họ cũng phải cân nhắc. Nhưng không ngờ,các quan tòa, các luật sư lại đấu tranh cho những sự việc không ra gì, làm bất lợi cho chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa, tạo ra sự không tin của người dân đối với chính quyền, làm phá vở đi tinh thần chống cộng của Quân , Dân, Cán , Chính.
Dựa vào tính dân chủ và quyền lập hội, hội họp của chế độ miền Nam, nhiều cá nhân, nhóm đã thành lập nhiều Ban - Hội để sinh hoạt. Có nhiều Ban – Hội có ý thức quốc gia sinh hoạt một cách thuần túy theo khuôn khổ tự do nhà cầm quyền quy định. Nhưng ngược lại có những Ban – Hội, có chủ đích đi ngược lại những quy định của chính quyền, làm lợi cho cộng sản. Mọi người ai cũng biết rằng cuộc chiến tranh giữa Bắc và Nam Việt Nam là do Bắc Việt Cộng sản phát động và mục đích là chiếm miền Nam theo lệnh của cộng sản Nga – Tàu. Nên cộng sản Bắc Việt tìm đủ mọi cách để chiến thắng. Vì thế  thủ đô Saigon là điểm tốt cho cộng sản Bắc Việt khai thác về phương diện tuyên truyền với quốc tế. Bọn chúng đưa tình báo xâm nhập vào các đoàn thể, Hội đoàn, Báo chí , Tôn giáo ….mục đích làm cho bộ mặt Saigon lúc nào cũng rối ren, để chúng tuyên truyền với quốc tế – rằng là người dân đứng lên chống chính phủ .
Trường hợp như vụ  tờ báo Sóng Thần năm 1974 đăng một bài viết “ Nhìn Lại Lãnh Đạo, TT Thiệu tuyên hứa 3 điều đã thực hiện ra sao, sau 7 năm cầm quyền?” của ký giả Lý Đại Nguyên đăng trên số báo 979 đề ngày 20 – 9 – 1974 và đăng nguyên văn bản cáo trạng số 1 Phong Trào Chống Tham Nhũng của Linh Mục Trần Hữu Thanh .Nội dung trong bài viết có tính xúc phạm đến Tổng thống Thiệu Tổng Tư Lệnh Quân lục Việt Nam Cộng Hòa trong thời chiến. Ngoài ra trong nội dung bài viết buộc phải chấm dứt chiến tranh tiến đến sự hòa họp hòa giải bất lợi cho công cuộc chống cộng của dân quân miền Nam .Số báo trên đã được lệnh tịch thu,vì vi phạm luật báo chí, nhưng các nhân viên báo Sóng Thần không cho tịch thu mà nổi lửa tự đốt.
Thế là cuộc chiến lại bùng nổ kéo theo nhiều đoàn thể, các nghiệp đoàn báo chí, luật gia , dân biểu, lực lượng thanh niên Công giáo và Phật giáo tham gia chống chính quyền, cho rằng chính quyền độc tài, bóp chết tự do ngôn luận. Những cuộc biểu tình có các dân biểu ,nghị sĩ, luật sư ….tiếp tay đã làm cho cuộc sống xã hội ở thủ đô Saigon hỗn loạn. Tiếp theo báo Sóng Thần, các báo Điện Tín, Đại Dân Tộc với sự giật dây của tình báo cộng sản đã đăng những nguyên văn bản cáo trạng tiếp theo của các đoàn thể khác bất lợi cho chế độ miền Nam .Bộ Thông Tin Dân Vận Chiêu Hồi ra lịnh đóng cửa các tờ báo đó . Từ đó sự tranh đấu đã tăng tốc, mạnh phát hơn. Nhiều đoàn biểu tình do Linh mục Thanh cầm đầu với sự có mặt của Dân biểu Nhuận, Binh, Kiều Mộng Thu, Nho, Tiếp, Cử, Kim Nguyễn Hữu Chung, Liên Bảo…tiếp ứng cho báo Sóng Thần.
Chính quyền truy tố báo Sóng Thần về tội mạ lị và phỉ báng (1) người lãnh đạo quốc gia. Việc làm của chính quyền (Đúng đắn trong thời chiến. Theo Hiến Pháp VNCH Tổng thống có quyền bất khả xâm phạm để thi hành nhiệm vụ của mình. Chỉ riêng trong trường hợp phản quốc và các trọng tội khác. Đặc biệt Pháp Viện mới có quyền truất phế Tổng Thống. Sau khi bị truất quyền đương sự có thể bị truy tố trước tòa án có thẩm quyền Điều 87 đoạn 5 Hiến Pháp). Đáng lẽ ra, các luật sự có tinh thần quốc gia sẽ không tham dự vào những việc bất lợi cho đất nước. Ngược lại các luật sư tham gia giúp báo Sóng Thần bào chửa từng đợt ,đứng đầu các nhóm luật sư bào chửa hăng hái nhất là Luật sư Đặng thị Tám , Hồ tri Châu, Trần Ngọc Liễng, Trần Tiến Tự,Đào văn,Trương tiến Đạt, Nguyễn hữu Hiệu, Phan tự Trọng, Lê trọng Uyên, Nguyễn văn Định, Nguyễn đức Lập, Nguyện thị Chính, Nguyễn văn Tấn,Tạ quang Trung, Nguyễn văn Giực, Trần tử Uyên,Đỗ văn Võ, Đinh thạch Bích, Nguyễn hữu Lành, Võ đình Biên, Huỳnh trung Chánh,Đàm quang Lâm,Đoàn Ý,Phạm nam Sách,Nguyễn phước Đại, Nguyễn tường Bá, Nguyễn văn Chức, Nguyễn hữu Chí, Phan tấn Chức, Nguyễn khắc tân, Bùi chánh Thời, Bùi tường Chiểu,Lê ngọc Chấn, Trần văn Tuyên……… Có 4 nhóm luật sư bào chửa cho vụ án báo chí.
Phải thành thực mà nói, các “ ngài” luật sư, luật gia , dân biểu, nghị sĩ…..đã núp dưới nền dân chủ của chế độ VNCH , rồi lại chống đối lại chính quyền VNCH bằng hình thức biểu tình, phản kháng, tuyên cáo, tuyên ngôn, công khai, hoặc bí mật. Hành động của họ làm cũng đã phản ảnh cho thấy là Việt Nam Cộng Hòa có sự dân chủ tuyệt đối và chính phủ VNCH không phải là chính quyền độc tài, như theo sự tố giác của họ. là : chính phủ VNCH độc tài, nên cần phải tranh đấu, chống độc tài. Nếu nói như các “ ngài” rằng là chính phủ VNCH độc tài, không có dân chủ nhân quyền, thì làm sao các “ ngài”  được quyền làm những cuộc biểu tình và tự do ăn nói. Các “ ngài” đã tự mâu thuẩn với chính các “ ngài”. Việc chống đối của các” ngài” với chính phủ miền Nam Việt Nam xuyên suốt nhiều năm cũng không lợi cho các “ ngài” mà lợi cho cộng sản là kẻ thù của người dân miền Nam.
Đứng trên phương diện khác (tình báo an ninh) việc tờ báo Sóng Thần lợi dụng tự do ngôn luận, đi ra ngoài khuôn khổ luật báo chí trong thời chiến, đăng những bài viết trong đó nhiều yêu sách bất lợi cho công cuộc chống cộng sản của Dân Quân miền Nam, nó không đơn thuần như các “ ngài” nghĩ và đã lăng mình vào cuộc  tranh đấu. Các “ ngài” có nhiệt huyết có tâm hồn, nhưng các” ngài” hành động không đúng chổ, các “ ngài” đã bị cộng sản giựt dây từ xa mà các “ ngài” không thấy điều đó. Các” ngài” thử xem lại đi, những người bạn cùng tranh đấu với các” ngài” là ai? Để trả lời dùm các” ngài” .Họ một phần là do tình báo cộng sản gài vào , hoặc là cảm tình viên của cộng sản. Họ luôn ở bên cạnh các “ ngài” và hăng hái thúc đẩy các “ngài” lao vào những việc tranh đấu có lợi cho cộng sản.( Sau ngày miền Nam mất các “ ngài dân biểu” có tinh thần ái quốc có thấy những tên dân biểu từng là bạn bè tranh đấu của các” ngài” đã lòi bộ mặt ra là cộng sản chính thống, như Lý quý Chung, Nguyễn văn Hàm, Kiều Mộng Thu…) Những luật sư như Triệu quốc Mạnh chẳng hạn.
Việc ngày “ Ký Giả Ăn Mày” ( 10 – 10 – 1974) , theo báo chí thời đó nói là đã thu hút hàng ngàn người tham gia biểu tình. Bên trong sự vụ này là do qua một bản thông cáo của các Chủ Nghiệp Đoàn Ký Giả Việt Nam – Nghiệp đoàn Ký Giả Nam Việt  và Hội Ái Hữu Ký Giả lên tiếng báo động rằng “luật 019/72 đã bóp chết tự do báo chí, hầu hết ký giả lâm vào cảnh thất nghiệp đói thê thảm, nhiều gia đình phải ăn cháo thay cơm, con cái bỏ học”
Trước tình cảnh đó, các hội đoàn báo chí đã tỏ ra bất lực vì quí hội đoàn đã hoàn toàn kiệt quệ. Để tương trợ lẫn nhau 3 nghiệp đoàn quyết định tổ chức” Ngày Ký Giả Ăn Mày”. Tại Câu Lạc Bộ Báo Chí số 15 trên đường Lê Lợi. 3 Nghiệp đoàn đã họp hoạch định kế hoạch cho ngày “ Ký Giả Ăn Mày”  và đã bầu ban tổ chức. Ký giả Kiên GIang , Tô Văn, Hồ Ngọc Can ( đại diên Nghiệp đoàn ký giả VN) Ký giả Thái Dương, Tô Ngọc, Văn Chi ( Đại diên Nghiệp đoàn Ký giả Nam Việt), ký giả Lý bình Hiệp, Văn Mai, Trần công Uẩn ( đại diện hội Ái Hữu Ký giả). Trong 9 ký giả trong ban tổ chức. Ký giả Kiên Giang được bầu làm phát ngôn viên.
Trong thời gian biểu tình của nhóm “ Ký Giả Ăn Mày” nhiều tuyên cáo đã được đưa ra yêu sách với chính phủ.. nội dung hũy bỏ các sắc luật về báo chí . như tuyên cáo của Hội Chủ Báo, tuyên cáo của Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng Để Cứu Nước Và Kiến Tạo Hòa Bình….
Trong khi các ký giả và các đoàn thể hăng sai với biểu tình đòi nhiều yêu sách với chính phủ, thì mọi người có biết rằng từ dân biểu Nguyễn văn Hàm và luật sư Triệu quốc Mạnh là hai phái khiển bí mật đang được Ban An Ninh T4 đưa ra điều phối công việc này. ( lời xác nhận của Ban An Ninh T4, sau này là Công An TP Hồ Chí Minh :  Trong số những cuộc biểu tình gây tiếng vang lớn do ông Hàm làm ra dưới sự giựt dây của ban T4 là cuộc biểu tình “ Ký Giả Ăn Mày” vào ngày 10 /10 / 1974.)
Tóm lại, việc lợi dụng nền dân chủ, dân quyền,một số phần tử trí thức miền Nam Việt Nam vô hình chung đã bán rẽ lương tâm làm lợi cho cộng sản. Điều đáng trách là trong giới trí thức lại có những luật gia, luật sư có tinh thần ái quốc mà lại không thấy sự xúi dục giật dây của cộng sản,nhiều lần lên tiếng bào chửa cho cái gọi là vụ án báo chí thọ nạn trong đó có sự giựt dây từ phía cộng sản.
Miền Nam bị bức tử hơn 40 năm, cộng sản đã đặt ách cai trị độc tài trên đất nước. Biết bao nhiêu là cảnh tang thương đối với đồng bào. Sự đàn áp của cộng sản  càng ngày càng gắt gao. Sinh mạng người dân không được bảo đảm . Một chế độ không có dân chủ nhân quyền. Người viết bài này, cũng rất mong các “ ngài trí thức”  ( còn sống) đã từng tranh đấu chống chế độ Miền Nam Việt Nam trước đây hãy đứng lên chống chế độ cộng sản hiện tại để Việt Nam được có dân chủ , nhân quyền. Các “ ngài trí thức” trước đây tham gia chống chế độ miền Nam Việt Nam, đã vì không sống nổi dưới chế độ cộng sản trốn ra nước ngoài. Nay hãy nên quay về chống chế độ cộng sản để đòi dân chủ nhân quyền cho đất nước là  những anh hùng của đất nước. Đó là nhu cầu của người dân yêu cầu các vị . Nhưng  mọi người cũng biết  là các vị không dám làm điều này, vì các vị đã biết cộng sản là gì rồi, các vị đã biết rõ sau hơn 40 năm chứ không còn mơ hồ , tưởng tượng  như thời gian trước năm 1975 rằng chế độ cộng sản đem công bằng đại đồng đến cho mọi nhân dân..
.Giả dụ như các vị ( còn cái máu xung của thời trẻ) dám làm ( chống đối cộng sản) . Mọi người tin chắc rằng các vị không toàn thân với cộng sản đâu! Không như chế độ Việt Nam Cộng Hòa tôn trọng nhân quyền dân chủ nên các vị lợi dụng muốn làm gì thì làm mà mạng sống các vị vẫn được an toàn.
Âu cũng là bài học, một trãi nghiệm thực tiễn trong đời sống để các vị khoa bảng chiêm nghiệm.

 Duy Văn - Hà Đình Huy
.
( 1) . Phỉ bang là một tội phạm đối với những ai lạm dụng QUYỀN TỰ DO THÔNG TIN CỦA BÁO CHÍ để phỉ báng người khác. Điều 21 luật báo chí: Báo chí được tự do thông tin…, Nhưng dùng quyền tự do ấy mà thông tin một HÀNH VI hay SỰ KIỆN làm tổn thương danh dự hoặc uy tín của một cá nhân hoặc cơ quan đoàn thể  là phạm tội phỉ báng ( Điều 30 đoạn 1 luật 019/69))