Thứ Bảy, 28 tháng 12, 2024

ẨM THỰC ĐƯỜNG PHỐ SAIGON TRƯỚC 1975

 

 image

Dù đã hơn 50 năm trôi qua, nhưng khi ký ức về những gánh hàng rong, về tiệm phá lấu, hủ tíu dạo, hay gánh mía ghim của tuổi thơ chợt ùa về, chắc hẳn trong lòng những người con Sài Gòn không tránh khỏi xao xuyến, nhớ thương.


Sài Gòn vốn được mệnh danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”. Nơi đây có sự giao thoa, chắt lọc, tiếp thu của nhiều nền văn hóa từ Đông sang Tây, để rồi tích tụ thành một nét đặc trưng rất riêng của mình. Đi ngược thời gian về giai đoạn những năm trước 1975, nhìn vào nét văn hóa tuy nhỏ bé nhưng không kém phần quan trọng: văn hóa ẩm thực đường phố, ta như được thấy lại một phần cuộc sống rất thú vị của Sài Gòn năm xưa.


Hủ tíu, phá lấu


image

Hủ tíu vốn có nguồn gốc từ văn hóa Trung Hoa. Từ năm 1778, ngay từ khi mới xuất hiện, hủ tíu đã trở thành một món ăn không thể thiếu trong đời sống người Sài Gòn.


Hủ tíu được chế biến khá công phu. Món ăn này vừa có cái ngọt thanh của nước dùng, cái đậm vị của các thứ gia vị trộn lẫn và sự phong phú của nhiều nguyên liệu cùng hòa quyện. Có khá nhiều “phiên bản” khác nhau của hủ tíu, từ hủ tíu Nam Vang đến hủ tíu Mỹ Tho, hủ tíu Triều Châu.


https://baomai.blogspot.com/
Mỗi loại hủ tíu có một nét đặc trưng của riêng mình, không thể đem so sánh. Nhưng dù bạn có khó ăn đến mấy, chắc chắn hủ tíu Sài Gòn vẫn là nơi có thể chiều lòng bất cứ ai.


image

Ngày nay, hầu hết hủ tíu đều được bày bán ở các nhà hàng, quán ăn lịch sự. Nhưng đâu đó trên đường phố, người ta vẫn thấy xuất hiện những chiếc xe nhỏ với mái che thân thuộc, mang theo hương vị hủ tíu gia truyền đi khắp các ngõ ngách Sài Gòn.


image

Nhiều người vẫn lưu giữ truyền thống của gia đình bằng cách sử dụng những chiếc xe đẩy có “tuổi đời” hơn 50 năm.

 

Phá lấu cũng là món ăn phổ biến ở đất Sài Thành. Trước 1975, những chiếc xe chở đầy phá lấu là ký ức  thân thuộc của người Sài Gòn.


Phở Tàu Bay


image
image

Trong các quán phở nổi tiếng lâu đời nhất Sài Gòn, có một tên tuổi lừng danh là phở Tàu Bay. Đối với nhiều người Sài Gòn, đó không chỉ đơn giản là một quán phở mà là một phần của văn hóa ẩm thực nơi đây, gắn liền với rất nhiều giai thoại, kỷ niệm.


Có mặt ở Sài Gòn năm 1954, phở Tàu Bay mang đậm hương vị miền Bắc và nhanh chóng trở thành tiệm phở được yêu thích nhất nhì Sài Gòn.


Bát phở Tàu Bay ngày xưa đặc biệt bởi hương vị độc đáo, bát lại nhiều thịt, nhiều bánh và đặc biệt là không có rau. Thậm chí, những người sành ăn còn cho rằng “sẽ là sự hạ thấp phở Tàu Bay nếu cho rau vào”.


Ngày nay, phở Tàu Bay vẫn được nhiều người ưa thích. Nhiều người xa quê hương, khi về đến Sài Gòn nhất định phải ghé phở Tàu Bay để ăn hết một “tô xe lửa” - tô to đùng đặc biệt của tiệm phở danh tiếng này.


https://baomai.blogspot.com/
Phở Tàu Bay vương vấn, ám ảnh lòng người đến mức nhà văn Tô Hoài đã dành cho nó một vị trí đặc biệt trong tập hồi ký “Cát bụi, chân ai”. Ông lý giải sự thú vị của cái tên Phở Tàu Bay: “Gánh phở ông Tàu Bay xưa đỗ cạnh dốc bên gốc cây thị đầu sân vào sở Văn Tự . Chỉ tình cờ một câu bông đùa cái mũ da lưỡi trai hơi dài khác thường của ông hàng so sánh với chiếc mũ phi công mà thành tên phở Tàu Bay, một hàng phở gánh buổi sáng.”


Hàng mía ghim


image

Nhắc đến Sài Gòn là nhắc đến một "thiên đường nhiệt đới", nơi có nắng vàng trải khắp các con đường, những cơn gió oi nồng và sắc màu rực rỡ từ những trái cây xứ nóng.


imageimage

Xưa ka, hàng mía ghim là điểm hò hẹn của tất cả mọi người, không kể lứa tuổi, tầng lớp. Tuy bình dị, nhỏ bé nhưng hoa quả ghim đã trở thành một phần ký ức  tuổi thơ của người Sài Gòn, và cho đến tận bây giờ, chúng vẫn chưa bao giờ bị coi là "lỗi thời".


Ngày nay, những hàng trái cây này thường đa dạng hơn với nhiều loại hoa quả: cóc, ổi, mía, đến cả xoài hay quả me chua ứa cả nước miếng đều được bán đầy rẫy trên khắp các con đường.


Xe bán mực nướng


imageimage

Những hàng mực nướng thế này xuất hiện khá nhiều ở các bến tàu, bến cảng của Sài Gòn xưa. Mực nướng thường được bán cùng ruột vịt cán mỏng. Và chúng sẽ trở thành “bộ đôi hoàn hảo”, nếu có thêm sự song hành của… bia Con cọp.


image


Những gánh hàng rong


image

Đủ các loại đồ ăn được bán trên khắp thành phố. Qua những khung ảnh xưa, chúng ta có thể cảm nhận nhiều sắc thái văn hóa khác nhau tại Sài Gòn. Tất cả tạo nên một bản sắc thú vị của ẩm thực Sài Gòn mà không nơi nào có được


image

image

image

imageimage




Hoàng Ngọc

Thứ Sáu, 27 tháng 12, 2024

NGƯỜI MẸ VIỆT VÀ ĐỨA CON LAI

 


image

Đứa bé da đen chào đời mới 7 ngày tuổi, người mẹ gửi vào Viện mồ côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng rồi khăn gói dắt con trai lớn cũng lai Mỹ vào Sài Gòn lập nghiệp. Sau 40 năm, ngày nay bà ngờ rằng ca sĩ Mỹ gốc Việt Randy chính là giọt máu bỏ rơi của mình.

Người mẹ ngày nay đã là một bà lão 72 tuổi đang cư ngụ ở Trảng Bom, Đồng Nai. Bà sống một mình trong căn phòng trọ khoảng 12 m2. Tài sản có giá trị duy nhất trong căn phòng là chiếc tivi cũ kỹ và có lẽ cả những dĩ vãng đau lòng...

Nét phong sương vẫn còn phảng phất đâu đó trên mái tóc bạc trắng, trong ánh mắt đượm buồn và giọng Huế nho nhã của bà lão đã bước sang tuổi xưa nay hiếm. Bà cho biết, đây là lần đầu tiên trong đời chia sẻ những góc khuất đời tư mà bà giữ bí mật suốt 40 năm qua...

Bà sinh năm 1940 tại Huế trong một gia đình trọng nho, trọng lễ hơn tài. Bà có rất đông anh chị em. Cha làm việc cho chính quyền chế độ trước và được điều về Sài Gòn công tác vào khoảng năm 1963, mang theo cái gia đình đông đúc ấy vào theo. Cô con gái xứ Huế lọt thỏm giữa chốn phồn hoa đô hội đã nhanh chóng sa ngã vào những cám dỗ cuộc đời. Giận đứa con gái không vâng lời, cha mẹ đã thẳng tay đuổi bà ra khỏi mái ấm. Thay vì tạ lỗi, cô con gái 25 tuổi cương quyết ra đi để tìm cuộc sống riêng cho mình bằng hai bàn tay trắng, không một đồng lận lưng.

image
Bức ảnh chân dung người mẹ chụp năm 1970.

Người phụ nữ nhớ lại, năm ấy nghe lời giới thiệu của bạn bè, cô gái xứ Huế vô gia cư xin vào làm bồi phòng ở cư xá Trương Minh Giảng. Đó là một chung cư dành cho quân nhân, nhân viên của phi trường Tân Sơn Nhất. Những ngày làm ở đây, bà quen với một quân nhân Mỹ gốc Phi có cái tên thường gọi là Kha Lưa. Chàng trai Mỹ xa gia đình luôn mang nỗi sợ chiến tranh và cô gái tứ cố vô thân nhanh chóng đồng cảm rồi yêu nhau lúc nào chẳng hay. Khi cô gái có bầu được 3 tháng, chưa kịp báo tin thì anh ta mãn hạn quân dịch trở về nước rồi bặt tin luôn.

Mang mặc cảm "chửa dại", bà bỏ việc đi giặt đồ thuê kiếm tiền sinh con. Đứa bé trai ra đời với nước da đen nhẻm và mái tóc quăn tít. Dù biết sẽ chịu lời đàm tiếu của xã hội đang lên án, bà vẫn giữ lấy giọt máu với hy vọng có ngày người cha trở lại tìm con. Sau này bà mới biết đó là điều hoang tưởng.

Không tiền, không nhà cửa và không thân nhân, cuộc đời bà rơi xuống tận đáy xã hội. Bà ôm đứa con không cha đi làm "ôsin" cho các quán bar. Cuối năm 1970, tại một quán bar ở Phú Thọ, bà biết mình lại có thai hơn 3 tháng với một người Mỹ khác. Lần này, bà chưa kịp biết tên tác giả bào thai thì ông ta biệt tích.

image

Đầu năm 1971, lẩn trốn thị phi, bà ôm con rời Sài Gòn về Đà Nẵng sống nhờ một người chị họ để chuẩn bị cho đứa bé ra đời. Vợ chồng người chị nghèo khổ với 6 đứa con nheo nhóc chấp nhận cưu mang thêm 2 mẹ con bà. Tuy họ không nói ra nhưng bà hiểu mình chỉ được phép tá túc ở đó trong thời gian. Bà có liên lạc với cha mẹ nhưng chỉ nhận được lời tuyên bố: Từ con. Lý do đơn giản vì bà đã làm xấu hổ gia phong lễ giáo của gia đình. Đứa cháu ngoại lai đầu tiên ra đời trong bối cảnh cả miền Nam đang sôi sục phong trào biểu tình khiến cha mẹ bà rời bỏ Sài Gòn, bỏ xứ để tránh tai tiếng do bà tạo ra. Bây giờ có thêm đứa con lai, kể như bà đã tự đẩy mình xa vĩnh viễn cha mẹ.

image
Người mẹ già ngày nay luôn ray rứt mong tìm được đứa con lai.

Rứt ruột gửi con

Lần sinh này do thai khó, bà phải chịu mổ. Thời đó chi phí cho một ca sinh mổ rất đắt, số tiền dành dụm của bà cạn sạch. Lượng sức mình không thể nuôi nổi 2 đứa con trong tình cảnh vô gia cư, nghe theo lời khuyên của người chị họ, khi đứa bé thứ hai mới 7 ngày tuổi, bà gửi cho Viện mồ côi Thánh Tâm ở Đà Nẵng. Khi giao con cho các sơ, bà mong đứa bé sẽ được chăm sóc tốt hơn là sống trong cảnh lang bạt kỳ hồ cùng bà.

Nhớ lại điều này, bà rơi nước mắt: "Không người mẹ nào muốn rứt núm ruột của mình. Không có nỗi đau nào hơn khi rời xa nó. Nhưng cặp nách một đứa bé sơ sinh, trong khi túi đã cạn tiền, không chỗ tá túc thì cả 3 mẹ con cùng chết đói. Tôi phải đi làm việc ngay để có cái ăn".

Dù chưa hồi sức sau khi sinh, bà dắt đứa con lớn trở về Sài Gòn. Lần này, bà thuê một căn phòng trọ ở chợ Sài Gòn sống an phận bằng nghề may thuê quần áo cho các chợ. Dù thương nhớ đứa con ở Viện mồ côi nhưng bà không đủ tiền để đi thăm. Cuộc sống giữa Sài Gòn khiến bà luôn thiếu hụt. Bà lại cắn răng đem đứa con đầu nhờ một linh mục nuôi ăn học.

Năm 1975, Sài Gòn giải phóng, chính quyền cách mạng đuổi bà về vùng kinh tế mới ở Bù Đăng, Sông Bé (nay là Bình Phước). Cuộc đời bà rẽ sang trang khác, tươi đẹp hơn. Lần đầu tiên trong đời thoát cảnh vô gia cư, bà xin nhận lại đứa con từ người linh mục. Phận mẹ góa nuôi con côi ở vùng đất mới khổ cực trăm đường, bà vẫn nuôi đứa con trưởng thành. Người con này lấy vợ, sinh cho bà một cháu trai và một cháu gái.

Năm 2000, không có tiền để làm thủ tục xuất cảnh theo diện con lai, bà làm thủ tục giao đứa con trai đầu cho một gia đình khá giả làm con nuôi. Người con này hiện sống ở Mỹ, thường xuyên gửi tiền về cho bà chi tiêu. Các cháu của bà cũng thỉnh thoảng về Việt Nam thăm bà. Người con này đang làm thủ tục bảo lãnh bà sang Mỹ để chăm sóc. Chính vì vậy mà bà thuê căn phòng trọ này để ở tạm trong thời gian chờ ngày đoàn tụ.

Mong muốn gặp lại đứa con đã gửi vào Viện mồ côi Thánh Tâm, bà bật khóc: "Tôi không mong nó tha thứ. Tôi chỉ mong gặp nó một lần để nói cho nó hiểu tôi đã khổ tâm như thế nào khi gửi nó vào viện mồ côi". Những giọt nước mắt ăn năn lăn dài theo những vết nhăn trên gương mặt đau khổ.

Từ một bài báo viết về ca sĩ người Mỹ gốc Việt Randy khá nổi tiếng ở Việt Nam đang tìm kiếm người mẹ ruột, bà nói rằng "tôi bàng hoàng vì có vài sự trùng hợp với đứa con mà tôi gửi vào Viện mồ côi Thánh Tâm".

image
Ca sĩ Mỹ gốc Việt Randy Tran.

Bà run rẩy lục tìm những chiếc đĩa CD, VCD nhạc của ca sĩ Randy, rưng rưng: "Lần đầu tiên nghe Randy hát bài “Nó”, tôi đã bật khóc. Hình ảnh đứa bé mồ côi trong bài hát cứ ám ảnh, cào xé tâm can tôi hoài. Linh cảm đã khiến tôi nghĩ mình có mối liên hệ thiêng liêng nào đó đối với Randy".

Bà nói rằng đã dò hỏi về thân phận của Randy. "Khi biết Randy là con lai tôi bàng hoàng. Lúc đó, tôi chưa biết Randy xuất thân ở Viện mồ côi Thánh Tâm nhưng tôi cứ mang máng nhận ra nó mang thân phận giống đứa con thất lạc của mình. Tôi nhờ người lùng mua tất cả những đĩa ca nhạc của Randy về nghe và khóc thầm một mình. Mỗi khi Randy ra một album mới, tôi đều tìm mua cho bằng được. Nghe Randy hát bài “Mẹ”, tôi suy sụp tinh thần".

Nỗi ân hận một thời lầm lỡ

Bà đặt những bìa đĩa CD có ảnh của ca sĩ Randy bên cạnh những bức ảnh của đứa con trai đầu trên bàn như để nguôi ngoai nỗi ray rứt. Trong khay nhựa, bà cất giữ rất nhiều đĩa CD của chàng ca sĩ lai, kể cả những đĩa in sang lậu.

Bồi hồi suy tưởng về quá khứ, bà cho biết, sau khi gửi đứa con mới 7 ngày tuổi vào Viện mồ côi Thánh Tâm khoảng vài năm bà có trở lại thăm nhưng đứa bé không còn ở đó nữa. Các sơ cho biết, một số đứa trẻ ở Viện, trong đó có con của bà được những người hảo tâm nhận làm con nuôi. Bà không đủ tiền để truy tìm tông tích đứa bé đành ngậm ngùi trở về Sài Gòn.

image

Thất lạc đứa con, lòng đau như cắt nhưng bà được an ủi phần nào khi nghĩ rằng, con bà được sống sung sướng, hạnh phúc trong một gia đình khá giả. Dù vậy, thỉnh thoảng bà vẫn khóc thầm vì xót xa lo ngại con bà sống trong cảnh lang thang cơ nhỡ. Mỗi lần cơn ác mộng đó ập về, bà lại tự dằn vặt mình. Mỗi khi ra đường trông thấy một thanh niên nào đó có màu da sẫm là bà đến nhìn thật kỹ rồi hỏi thăm nhân thân để tìm chút hy vọng mong manh.

Bà bày tỏ: "Cho dù có thể không phải con tôi, tôi cũng muốn gặp để nói cho Randy biết rằng, nếu nỗi tủi thân của một đứa con lai mồ côi là một thì nỗi tủi nhục, đau đớn của bà mẹ có con lai như tôi phải là 10. Hãy thông cảm và tha thứ cho những bà mẹ giống tôi. Những người phụ nữ có quá khứ tuổi trẻ không đẹp thường che giấu bằng cách không kể với mọi người. Còn những bà mẹ như tôi, đứa con tố cáo tất cả. Nghịch cảnh ở chỗ, tình yêu đứa con - chỗ dựa tinh thần, lại cũng chính là nỗi tủi nhục quá khứ cho dù mọi người xung quanh không lên tiếng".

Randy là giọng ca nổi lên trong cộng đồng giải trí người Việt ở Mỹ vào năm 1992, được nhiều người biết đến. Ca sĩ là một đứa con lai Việt - Mỹ, sinh ra và lớn lên ở Việt Nam với nhiều khốn khó, từng sống ở Viện mồ côi Thánh Tâm, được cho làm con nuôi, xuất cảnh sang Mỹ theo diện con lai. Trở về Việt Nam năm 2007, nhiều năm nay anh chú tâm tìm kiếm người mẹ thất lạc. Randy đang bận bịu chuẩn bị cho một chương trình ca nhạc tại Hà Nội nên chưa có dịp gặp người phụ nữ tự nhận là mẹ của chàng ca sĩ lai.

Vietnamese-American singer Randy

image

The Vietnamese-born Randy comes back to Vietnam to look for his mother. He does not know who his parents were. But after 20 years living in the US, his wish to find his mother is still going strong.

He spoke to Thanh Nien Newspaper about his plans in Vietnam.

You’ve been back to Vietnam three times, why did you agree to appear in so many music shows this time?



Yes, I have come back to Vietnam three times already. But the last two times were just to look for my birth mother. I have never had peace of mind whenever I think of her.



Every time I have a chance to come back to Vietnam, I go straight to some places where I think my mother may be living, but my dream has never come true. I didn’t give any performances during my previous two trips home because I wasn’t able to get the work permit; but this time, I got an official license. This will help fulfill my aspiration to perform in my birth country.

As you said, your biggest dream is to find your mother. Why don’t you try performing on some TV shows? That would give you a lot of exposure to the TV viewers--your mother may be among them.

That’s exactly what I thought! That’s why I jumped on the invitation from the local TV show “Vitality of Life”. As you said, my mother may be living in some distant place and this may be the only way for her to recognize me. I just wish that someday I could fall into her arms and cry. I always dream of this moment, being reunited with her, after 20 years of living in the US with a lot of difficulty and sadness.

Have you ever felt self-pity because you were abandoned when you were a little child?

Actually, I haven’t ever felt self-pity because while I was a little boy in Vietnam I did not have any happy moments to compare them with the unhappiness that I am enduring.

However, when I had grown a bit older, I looked into the mirror and saw my skin color being different from that of my friends around me, I felt a little sad. But I did not have much time to dwell on that, I was too busy struggling to survive, trying to earn a living.

Your childhood is known to be very poor and miserable in the central province of Quang Nam and even during the early years of your arrival in the US in 1990 life was still very harsh for you. Is it the reason why your singing can move people to tears?

Exactly! The unhappy childhood years have left its indelible imprint on my heart ever since I began to have a little knowledge about life. I can’t bring myself to sing a happy song when every night in my dream I long for my mother and the dream still remains unfulfilled. Maybe sad songs suit me better.

Tell us about your coming shows in Vietnam?

I will perform at Saigon City’s Trong Dong Music Stage Theater on the night of November 4. I will perform in two music shows at Tieng Xua lounge bar, and also at some events in Hanoi, Hai Phong, and Danang.


WASHINGTON - Randy Tran walked quickly past the majestic domes and marble statues of Capitol Hill, looking for the Cannon House Office building and the people he believed could help him.

Tran, a Vietnamese pop singer who lives in a San Francisco Bay Area suburb and sleeps on a friend's couch, flew 2,900 miles to be in Washington. He rehearsed what he wanted to say. His English was not perfect. He was afraid he would have just a few minutes to make his case.

He had a 3 p.m. appointment in the office of a Wisconsin representative. He was not exactly sure what Representative F. James Sensenbrenner did, but he was certain that he could help untangle a political process that had ensnared him and thousands like him.

Tran came to Washington on behalf of abandoned children of American soldiers and Vietnamese women, born during the Vietnam War and, like him, seeking citizenship in the country their fathers fought for.

Called Amerasians, many were left to grow up in the rough streets and rural rice fields of Vietnam where they stood out, looked different, were taunted as "dust of life."

Most were brought to the United States 20 years ago after Congress passed the Amerasian Homecoming Act, which allowed the children of American soldiers living in Vietnam to immigrate. But citizenship was not guaranteed, and today about half of the estimated 25,000 Amerasians living in the United States are resident aliens.

Tran and 21 other Amerasians flew to Washington this summer to lobby for the Amerasian Paternity Act. It would give Amerasians born during the Vietnam and Korean wars automatic citizenship, rather than requiring them to pass tests in English.

Tran lives in Hayward, Calif., and travels the country crooning pop songs to Vietnamese fans at restaurants and concert halls. But he feels unsettled.

"I feel like I belong nowhere," said Tran, whose father was a black man whose name he probably never will know, but who gave him the mocha-colored skin so different from other Vietnamese.

"If I go to Little Saigon, they say, 'Are you Vietnamese? You look black.' If I go to the American community, they say, 'You're not one of us. You're Vietnamese.'

But most wrenching for Tran is his lack of citizenship, a constant reminder of being an outsider in what he considers his fatherland. "Our fathers served for the country, fought for freedom," Tran said. "I am not a refugee, but I am being treated as one. We are Americans."

Tran does not know his age. On paper he is 34, but he guesses he is closer to 37.

His mother left him in an orphanage in Da Nang when he was days old. A few years later, a woman in a nearby village adopted him to help care for her cows. She refused to let him call her "mother."

The neighbors gawked at his dark skin; the village children yanked his curly hair.

"They looked at us like we were wild animals, not people," Tran said.

When the Homecoming Act passed in 1988, thousands of Vietnamese who wanted to escape the Communist government used the Amerasians as a device to flee. At 17, Tran was sold to a family for three gold bars. When the family got to America, they asked Tran to leave their home. He moved in with a friend's family.

Like Tran, many Amerasians lacked the English skills, education, and family connections that had helped other Vietnamese refugees assimilate. Many did not attend school in Vietnam and arrived in America illiterate. Many migrated to Vietnamese communities where they once again were shunned. Some turned to drugs or gangs.

They received eight months of government assistance, including healthcare, English lessons, and some job training. But the government did not help Amerasians locate their fathers, and funding ended in 1995.

In Washington, Tran and the other Amerasians met at a friend's house. Tran urged them to lobby for the citizenship bill, sponsored by Representative Zoe Lofgren, Democrat of California. In 2007, they formed the Amerasian Fellowship Association, which now has 5,000 members.

The meeting in Sensenbrenner's office lasted less than 25 minutes. The man Tran spoke with promised to do what he could to help. It wasn't until the man handed out his business card that Tran realized he wasn't talking to the Republican representative from Wisconsin. He was talking to a staffer.

There is a lot Tran does not understand about Washington. He's not sure which of the two houses of Congress the bill is stuck in or why it is taking so long to become law.

Lofgren warned the group that it was unlikely the bill would pass this year. But she promised to reintroduce it next year.

Tran later wrote to the staffer. He has yet to hear back, but he has faith that America will come through, eventually.
BM

Thứ Bảy, 7 tháng 12, 2024

LƯNG TRỜI GÃY CÁNH

 

 BM

Giữa một thung lũng xanh tươi man mác thuộc vùng núi rừng cao nguyên Trung Việt, từng đàn trực thăng rầm rộ lao vào, mang theo những chiến binh không kỵ đầu tiên quân lực Hoa Kỳ của thập niên 60, nhưng khi chân họ vừa chạm mặt đất cũng là lúc hàng tràng đạn lớn nhỏ dòn dã nổ vang đón tiếp như đã chờ đợi từ lâu; cuốn phim “We Were Soldiers” đang đến đoạn gay cấn, thì tiếng chuông điện thoại reo lên, theo thói quen thường lệ, đợi đến hồi chuông gần dứt, hắn mới nhắc điện thoại lên áp vào tai rồi chậm rãi cất tiếng: - “Alô! Tôi là Mẫn đây! Xin lỗi ai đầu máy.”


Như đã nhận ra giọng người đối thoại, cái âm thanh bỡ ngỡ ban đầu mau chóng đổi qua hân hoan:


- “Dạ! Trung-úy Mẫn đó hả! Em là Phương, Trung-sĩ Phương, cơ phi phi đoàn 225 đây! Trung úy còn nhớ em không? Em trong phi hành đoàn của Trung úy Tuấn và Thiếu úy Tiến bị bắn rớt ở Cà Mau hồi …..”


BM

Hắn giật mình hơi sửng sốt bàng hoàng một phần vì lối xưng hô mà đã từ lâu rồi hắn chẳng còn được nghe, một phần vì cách gợi trí nhớ bằng một câu chuyện của người bên kia đầu dây thật bất ngờ, nên từ đó cho đến khi chấm dứt cuộc điện đàm tâm hồn hắn cứ ngơ ngn như kẻ đang sống ở thế giới này, đột nhiên bị ném trở về một nơi chốn nào đó chẳng phải lạ lẫm gì lắm đối với hắn đâu, nhưng sao thật là xa vời mà lại cũng vừa thân cận làm sao! Ừ nhỉ mới đó đã hơn hai mươi lăm năm rồi!”, hắn thầm nhủ. Cái thời khoảng hào hùng, dọc ngang đi về với gió lộng, mây ngàn ăm ắp biết bao kỷ niệm đầy trầm thống vinh nhục một thời là chất men cay nồng trong ly rượu chinh chiến mà cuộc sống lúc nào cũng sẵn dành cho những kẻ như hắn, hương vị xuân xanh của tuổi trẻ đầy nhựa sống chưa tận hưởng được bao nhiêu, thì đã vội vã hào sáng ngửa cổ nốc cạn những mật ngọt đắng cay ấy.


“Trung uy Mẫn !” Hắn lại lẩm bẩm mẫu danh xưng một thuở thật là quen thuộc này, và rồi quãng đời oanh liệt cùng với ẩn tích kỷ niệm quá nghiệt ngã kia bỗng hiện rõ dần trong tâm tưởng hắn sống động như hình ảnh chiếc trực thăng trúng đạn lảo đảo đập mình xuống nền cỏ xanh mơn mởn trên màn ảnh truyền hình trước mắt mặt hắn.


Xạ thủ phi hành trực thăng UH-1


BM

Ðang lặng yên thưởng thức hương vị đậm đà tách cà phê đầu ngày qua từng ngụm nhỏ, bỗng có tiếng máy nổ vang vọng đến từ cuối con hẻm khuấy nhiễu sự tĩnh mịch của khu cư xá sĩ quan đầy khiêm tốn này, thế là hắn uống cạn cốc cà phê đen còn nóng đã vừa giúp hắn xua đuổi cơn ngái ngủ, đứng dậy xách chiếc túi đựng nón bay bên cạnh, dừng chân ghé lại chiếc giường còn nóng ấm hơi người, hôn vội lên môi vợ và vầng trán thơm tho của hai đứa con trai đang say sưa đều hơi thở, rồi bước nhanh ra ngõ; đây là cái thói quen mà gã đã có kể từ lúc khép mình vào cuộc đời bay bổng đầy bấp bênh, gian nguy cua kiếp hoa tiêu trực thăng thời binh lửa mà cái chết lúc nào cũng rình rập đâu đó như một hứa hẹn không chờ đợi; hơn nữa có ai biết được nụ hôn nào cho người thân yêu là nụ hôn cuối đời! Bên ngoài trời vẫn tối đen, ánh sáng mờ mờ từ một vài cột đèn đêm rải rác dọc theo con lộ duy nhất soi bóng chiếc Honda của Tuấn đang rẽ đến, nhảy gọn lên phía sau. Chiếc xe gắn máy rú lên lấy sức chuyển bánh, tiếng động cơ lại vang lên nặng nề trêu chọc bầu không khí yên lặng của khu xóm buổi tàn đêm, đâu đó vài tiếng chó sủa phụ họa, Tuấn mở miệng vài câu pha trò lấy lệ:


- “Khôn hồn thì câm mồm lại! Nếu không thì ông gửi chúng mày ra cái quán ơ cầu Bình Thủy ‘chả chìa, rựa mận’ chúng mày bây giờ. ”


BM

Cổng vào Sư đoàn và phi trường sáng choang ánh đèn của phiên gác đêm gần mãn, hắn dơ tay chào đáp lại người quân cảnh bên lề lối nhỏ phía trái. Con đường tráng nhựa quanh co qua các phần sở dẫn đến phòng hành quân phi đoàn thưa thớt bóng người, rải rác dăm ba người lính đổi phiên co ro rảo bước trong làn sương lạnh ẩm ướt, vừa phì phèo trên môi điếu thuốc, cứ thỉnh thoảng lại sáng lên theo từng hơi rít đầy thỏa mãn.


Trong lúc Tuấn lui cui dựng chiếc xe, hắn bước vào phòng hành quân, giờ này vắng lặng không một bóng người lai vãng ngoài viên sĩ quan trực phiên đêm đang ngồi che miệng ngáp nơi chiếc bàn một bên sau cánh cửa ra vô, những dãy ghế trước mắt lạnh lẽo bất động lờ mờ nửa tối nửa sáng nhìn lên chiếc bảng xanh ghi tên những phi hành đoàn trong ngày, to choán gần hết chiều ngang căn phòng. Hắn rút cây bút trên túi áo vai chuẩn bị điền số phi vụ lệnh trước khi ra phi đạo để làm tiền phi, bỗng Tuấn lớn tiếng đầy vẻ xì nẹt hỏi người sĩ quan trực:


- “Ai đổi phi hành đoàn của phi đội tôi vậy ?”

- “Ông 33, đại úy Tường chứ ai.


Giọng Huế nhỏ nhẹ của thiếu úy Chư như đã chuẩn bị từ trước, đi kèm với nụ cười cố hữu có ý vuốt giận người đàn anh. Có tiếng lẩm bẩm chửi thề, hắn bước vội ra ngoài tránh lên tiếng để làm dịu đi cái tình huống lận cận mất vui này. Bình thường mỗi khi cắt cử phi vu, Tuấn hay chọn gã ngồi ghế trái để đi “lead” trong các phi vụ võ trang yểm trợ, thật ra chẳng phải vì tài ba bay bổng gì của hắn, mà chỉ vì cả hai đã quen biết nhau lúc còn thời gian huấn luyện, nhà thì ở cùng một khu cư xá rất tiện cho việc đi về và có lẽ một phần lớn là do cái kinh nghiệm từng trải qua nhiều tình trạng nguy hiểm cũng như khẩn cấp thuở còn phục vụ một phi đoàn nơi vùng Tam Biên nổi tiếng hiểm địa trước khi thuyên chuyển về đây, và Tuấn đã nghe kể lại từ những người bạn thân của hai người. Ðã có lần Tuấn tâm sự “nhảm” cùng hắn: “Nếu lỡ tàu hay tôi có bề gì! Ði với ông vẫn nhiều hy vọng hơn, vì ông có nhiều kinh nghiệm và đủ khả năng để có thể đem tôi về với vợ con tôi!”; và chính hắn đã bật cười trêu đùa cái ý tưởng bi quan kỳ quặc này của bạn mình. Do đó chả trách gì Tuấn nổi “cau”, khi bị đổi tên qua bay chiếc số hai với thiếu úy Quách Dũng Tiến, một hoa tiêu vừa mới “check-out” hành quản không bao lâu, còn hắn thì vẫn đi “lead” với đại úy Tường.


Hai chiếc trực thăng võ trang xề xệ bên hông hai bó “rocket” , súng đạn nặng nề oai nghi lướt mình trong sương mai, rời căn cứ khi mặt trời vừa nhô lên ngang ngọn cây. Quốc lộ Bốn như con rắn len lỏi giữa những thửa ruộng xanh tươi ngút ngàn đã bắt đầu ồn ào khoe sức sống của một ngày mới với rộn rịp xe cộ qua lại. Và đây dòng sông Hậu bao ghe đò tấp nập nhấp nhô trên sóng, cùng trườn mình quanh co dạt dào sinh lực, tẻ ra nhiều nhánh chan hòa khắp mọi nơi, rồi ào ạt tuôn nước ra hướng đại dương; tất cả những sinh động quen thuộc ấy của miền Tây thân yêu trải dài dưới ánh bình minh của một buổi sáng chớm xuân.


Trong phòng lái qua khung cửa kính hắn lặng yên kéo hơi thuốc lá đầu ngày đã được dành sẵn, đôi mắt mơ màng tận hưởng những giây phút thoải mái hiếm hoi này; tiếng cánh quạt chém gió hòa vào âm thanh động cơ nổ đều đều xen lẫn với tiếng gió ve vuốt thân tàu đã giúp hắn trong khoảnh khắc tạm quên bao khổ lệ, nhọc nhằn đời quân ngũ cũng như những gian truân, rình rập của kiếp chim trời! Chả trách gì thế nhân cứ thi vị hóa lối sống của những người như hắn! Dẫu thế cũng có dăm sự ganh tị nho nhỏ khá dễ thương của vài đồng nghiệp bay qua những đặc danh dành riêng cho phi công trực thăng như “tài xế máy bay” hay “pilot xe đò” bởi khả năng đáp hầu như vô giới hạn bất kể diện tích lớn nhỏ của nơi hạ cánh.


BM

Khách quan mà nói cũng như chẳng phải để phân biệt, bất kể loại máy bay nào, nỗi gian nguy cũng đều như nhau bởi có lần cất cánh nào bất trắc chẳng chực chờ; tuy nhiên có những lạc thú mà chỉ có hoa tiêu trực thăng mới có cơ hội trải qua như: một buổi chiều khi sương mù sắp phủ trên đỉnh đồi căn cứ Nam vùng Dak To, dang chân làm một cái “tiện nhỏ” mà nghe gió núi lùa vào thổi phồng chiếc áo bay làm mát lạnh cả toàn thân, hay ngất ngưởng kéo vội vài hơi rượu Cần nơi tiền đồn Dak Peck heo hút của núi rừng Tam Bien rồi vội vã cất cánh trước khi các đám mây đen dày đặc chung quanh ngọn Ngọc Long chực chờ giang phủ lối về, hoặc buổi trưa dừng cánh ở ngôi làng nhỏ gần quận lỵ thuộc tỉnh Chương Thiện, khề khà chai bia nóng với món mắm lóc dẻo quánh thơm phức vừa mới đào lên sau vườn và còn nhiều lắm kể sao cho hết; nhưng bên cạnh đặc thù kể trên, chẳng thể nào không nói về sự tận mắt đau xót chứng nhân cho bao khổ nạn mà người lính Việt Nam phải oằn nặng trên vai trong cuộc chiến đầy oan nghiệt này; căn hầm gác chật chội ngay vòng đai an ninh trông xuống con đường mòn HCM của căn cứ lực lượng đặc biệt Ben He , người lính biệt động quân biên phòng miền cao nguyên xoay sở vất vả để vừa tạm tru cho cả gia đình, vợ và ba con, vừa sẵn sàng chiến đấu khi Cộng quân tấn công; còn nữa chị vợ trẻ một quân nhân nào đó của đồn Trà Tiên lẻ loi vùng Rạch Giá, Hà Tiên không đường bộ liên lạc, chờ mãi phương tiện di chuyển vào thăm chồng và nhận tiền lương, cho đến khi cạn cả tiền đường đành bán chút nhan sắc đương xuân nơi cái quán nhỏ bên lề đường, để kéo dài thời gian chờ đợi mong gặp gỡ người chồng thân yêu! Ðang miên man với mớ ý tưởng hỗn độn này, thì giọng nói của đại úy Tường lại vang lên phân trần về chuyện vừa xảy ra đã đưa hắn trở về với tình huống kém vui này, và cũng có lẽ vì nguyên cơ này mà liên lạc bình thường trên tần số nội bộ giữa hai chiếc hầu như không có kể từ lúc cất cánh cho đến bây giờ.


Từ xa những cao ốc, nhà cửa biểu tượng nếp sống phố thị đang ló dạng, hắn chuẩn bị điều chỉnh cần lái cho tàu giảm dần cao độ đáp xuống phi trường Cà Mau. Tuấn vẫn giữ thái độ lầm lì, tránh nói chuyện ngay cả với hắn, và trong buổi thuyết trình về tình trạng áp lực của địch tại mục tiêu cũng như kế hoạch thi hành phi vụ, Tuấn cũng không đưa ra một ý kiến nào cả; mặc dù thường nhật, là một hoa tiêu can trường Tuấn rất hăng say trong việc đóng góp ý kiến nhất là những lúc quan hệ như lúc này bởi sinh mạng của người hoa tiêu lẫn con tàu và bao người khác thường được định đoạt trong cái phút giây ấy, chỉ cần một sơ xuất hay thiếu xót nhỏ thôi, hậu quả sẽ không thể nào lường được ! Biết rằng bạn vẫn còn bực cái “của” mình ( chữ của Tuấn thường dùng khi không hài lòng về một chuyện gì! ), hắn cũng như đại úy Tường cũng cố gắng pha trò, nhưng chẳng làm Tuấn thay đổi thái độ.


BM

Khoảng xế trưa sau giờ cơm, ba chiếc trực thăng, hai võ trang và một tản thương được lệnh quay may cất cánh lấy cấp bay về hướng tọa độ mục tiêu. Nắng đã lên cao, rải rác trên bầu trời xanh lơ thơ vài cụm mây trắng lửng lơ vô định, từng thửa ruộng xanh tươi mát nối tiếp nhau trải dài ngút tầm mắt thỉnh thoảng lại điểm dăm ba hố bom tràn nước lấp lánh dưới ánh mặt trời, chính nơi đây là chỗ trú thân bao loài thủy sản cho nên thường là địa điểm ghé kiếm chát “tươi” cho buổi nhậu của nhiều phi hành đoàn trực thăng sau những chuyến hành quân cực nhọc.


Nơi làm việc là một cứ điểm quân sự trọng yếu nhằm nghe ngóng sự di chuyển và ngăn chặn những hoạt động của lực lượng địch trong vùng; do đó Việt cộng thường xuyên đẩy mạnh áp lực tấn công cũng như quấy rối vào đồn này. Ðã hơn một tháng nay ngày nào chúng cũng pháo kích hoặc tấn công lai rai vào lực lượng trú phòng. Nhất là trong thời gian gần đây, các chuyến bay tiếp tế hay tản thương bị đình trệ vì bãi đáp không còn an toàn, khoảng hai tuần trước đã có một chiếc trực thăng tản thương suýt rớt vì hoả lực của địch; do đó căn cứ này đã tạm coi như trong tình trạng cô lộp dù là chỉ cách quận lỵ Năm Căn vài cây số đường chim bay. Tinh thần anh em binh sĩ trong đồn xuống thấp là điều có thể hiểu được nên bộ chỉ huy tiểu khu Cà Mau hy vọng là chuyến tản thương sẽ nâng cao quyết tâm chiến đấu của các anh em.


Theo kế hoạch dự định, hai chiếc võ trang vào trước để dọn đường cũng như “clear” bãi đáp, chiếc tản thương sẽ bay vị trí số ba vô đáp; trong lúc ấy hai trực thăng võ trang làm vòng chờ bên trên bao vùng bảo vệ an toàn bãi đáp cho đến khi chiếc tản thương hoàn tất phi vụ bình yên rời khỏi mục tiêu; sau đó với hoả lực còn lại hai trực thăng võ trang sẽ làm việc với quân bạn trong đồn để giải tỏa phần nào áp lực của địch xung quanh. Như thông lệ trước khi vào một bãi đáp “hot” , phi hành đoàn được lệnh nai nịt cẩn thận, hắn siết chặt chiếc “chicken plate” trước ngực vừa đủ để thở dễ dàng, đẩy chắn đạn hông của ghế ra trước, kiểm soát lại cái cần an toàn đỏ bên cửa trái và sau đó là . hít những hơi thở thật dài rồi ngồi “đồng” để chờ đợi những phút giây căng thẳng sắp tới mà có lẽ chỉ có những kẻ đã kinh qua mới thông cảm được mà thôi.


BM

Trong thời khoảng ác nghiệt này, dường như não bộ cũng muốn tê liệt, hình ảnh kẻ thân yêu cũng chập chờn trong hư aỏ; tiếng phằn phặt vòng quay, tiếng gào thét động cơ, tiếng ào ào của gió đập vào thân tàu, tất cả trộn lẫn vào nhau tạo thành loại âm ba cuồng nộ, chát chúa; .và rồi khi con tàu tiến vào gần mục tiêu, từng tràng đạn đại liên gầm vang đe dọa, thân tàu rung lên như giận dữ, tiếng lách cách của vỏ đạn chạm vào sàn tàu mang theo mùi thuốc súng nồng nồng; mắt hắn dán chặt vào các phi kế trước mặt, chân tay trong tư thế sẵn sàng chụp lấy các cần điều khiển; mé rừng cây thấp gần mục tiêu lớn dần theo độ cận tiến phi co! Bỗng có tiếng báo cáo của Tuấn vang lên một cách hốt hoảng trên tần số nội bộ phi đoàn: ”Số hai bị trúng đạn nặng! “break” trái rơi vùng”.


Ðại úy Tường cũng vội vã cho con tàu làm vòng quanh gắt về trái vừa cố gắng liên lạc với chiếc số hai. Riêng hắn quay hẳn nửa người bên trái đẩy vội cái chắn đạn ra sau, ngước mắt nhìn lên tìm kiếm bóng dáng con tàu của bạn mình. Trên cao khoảng hai mươi bộ hướng một giờ, con tàu trúng đạn bốc khói đen mù mịt đang lảo đảo cắm đầu tìm chỗ hạ cánh. Hắn rùng mình kinh sợ cho số phận phi hành đoàn lâm nạn bởi cái cảm giác trông con tàu bị bắn cháy giữa thinh không chẳng lạ xa gì đối với hắn!


Trực thăng vận


BM
Trong một cuộc hành quân cuối năm 1972, phi cỏ hắn đã bị phòng không địch bắn bốc cháy trong lúc đỏ quân trên đỉnh Phượng Hoàng đầu phi đạo Ðức Cơ. Năm đó, phi đoàn hắn, Lạc Long 229 cùng Thần Tượng 215 phối hợp với sư đoàn 23 bộ binh trong một cuộc hành quân lớn vùng Tam Biên, hôm ấy hắn và Phước “râu bắp” bay vị trí số ba của hợp đoàn gồm nhiều chiếc; đội hình bay là hàng dọc, mỗi chiếc cách nhau bốn mươi lăm giây, hoả lực địch được báo cáo bởi tin tình báo cho biết là rất dữ dội quanh vùng hành quân, đại liên 12 ly 7 chỉ là đồ ăn chơi; món ăn chính là súng phòng không 14 ly 5. Ðể bảo đảm an ninh, hợp đoàn chỉ ra vào một hành lang , với cao độ thấp.


Ngay trong đợt đầu của cuộc đổ quân, vì nhiều nguyên nhân có thể là địa thế đáp quá hiểm trở, gió lại khá lớn; do đó chiếc số hai ( thường là vị trí dành cho hoa tiêu “non” tay nhất của hợp đoàn) cứ cố kềm tàu trên bãi đáp nên khi số ba vào đến rồi mà chiếc số hai vẫn còn chưa rời vùng; thế là chiếc số ba đành phải “treo lồng đèn”; và ngay giây phút hiểm nghèo ấy, phi cơ hắn đã trở thành tấm bia ngon lành đẻ tác xạ cho pháo thủ phòng không 14 ly 5 của địch. Con tàu hắn bị trúng đạn, tắt máy, bốc cháy trên không, cố lết khỏi vùng, trước khi chạm đất hắn còn nghe vang vang trên tần số nội bộ VHF công điện sắc, gọn đến lạnh người của “Báo Mun”, trưởng hợp đoàn trực thăng võ trang 229: ” Báo cáo Charlie! Chiếc số ba bị bắn cháy! Phi hành đoàn chắc tiêu rồi!”


Vận may chưa hết nên tàu đã xuống đất kịp lúc! Thoát nạn thiêu sống và sau đó chiếc tàu do Lý Cương Quyết, trưởng phi cơ thuộc phi đoàn 215 đã nhào xuống bốc phi hành đoàn hắn trước khi địch quan có đủ thời gian truy đuổi; nếu không có lẽ giờ này xác thân hắn đã theo con tàu tan thành tro bụi và vợ con hắn cũng đã là quả phụ, cô nhi rồi!


BM

Chiếc số một bất lực bay kề sát bên hông như cố gắng chia xẻ những giây phút cùng cực này với con tàu lâm nạn! Riêng hắn, hai bàn tay nắm chặt, đôi mắt mở to, nói lớn như gào: “Ráng lên Tuấn ơi! Gần tới đất rồi!”. Bỗng dưng miệng hắn khô khốc lại, âm thanh chết cứng trên môi vì cảnh tượng kinh hoàng xảy ra trước mắt; còn khoảng ba thước , con tàu kiệt lực uất ức hét lên một tiếng nổ lớn rồi ngọn lửa bùng mạnh dữ dội, thân tàu quay nhanh những vòng cuối tức tưởi, uất ức đập mạnh xuống mặt ruộng xăm xắp nước, dẫy dụa rồi lật ngửa phơi bụng thoi thóp hấp hối giữa vòng lửa cường hung!


Ðại úy Tường cho tàu hối hả hạ càng đáp trên bờ ruộng cách khoảng độ gần hai mươi thước, đầu hướng về mé rừng cây, hắn tháo vội nón bay quay ra sau thét lớn thúc hối hai người cơ phi, xạ thủ rời tàu để tiếp cứu phi hành đoàn lâm nạn. Nhưng cả hai có lẽ như bị chết cứng vì sợ hãi trước thảm cảnh quá rùng rợn đang xảy ra trước mắt. Hắn điên lên vì giận dữ, giật tung dây an toàn, vất chiếc nón bay xuống ghế, leo vội ra sau đẩy mạnh vai người hạ sĩ quan cơ khí một lần nữa để thúc dục; rồi nhảy khỏi tàu. Do nước ruộng sâu vừa đủ làm hắn té chúi nhủi về phía trước, chống vội hai tay đứng dậy, nước bùn ngập gần gối cứ níu kéo chân khiến hắn khấp khểnh tung bước co chạy về hướng chiếc phi cơ đang bị ngọn lửa bao trùm; vài loạt súng AK của địch cất cao giọng hăm dọa, vang vang từ mé bìa rừng nhưng chưa đủ để ngăn cản cái cơn “khùng” của hắn lúc bấy giờ. Ðám cháy vẫn ngạo nghễ cất cao, hơi nóng hắt mạnh vào người, rõ ràng nước ruộng đã toa rập đẩy ngọn lửa lan thật nhanh bao kín cả con tàu, hắn bất lực gào to tên bạn mình rồi lúp xúp chạy quanh đám cháy.


Chợt trước mặt hắn một thân người trong chiếc áo bay xám nằm úp mặt xuống nước hai tay dang ra như xác chết trôi, hắn mừng rỡ nắm lấy hai cổ chân lật ngửa thân người với hy vọng nhìn lại được khuôn mặt quen thuộc. Nhưng khi nhận ra đó là người cơ phi, nên thất vọng hắn vừa nắm chặt cổ chân lôi tấm thân bất động này vừa tiếp tục công việc tìm cứu. Lại một thân người nữa trong tư thế nằm ngửa, rất nhanh hắn nhận ra được người đó cũng chẳng phải là kẻ hắn đang mong mỏi. Thế là hai tay hì hục lôi hai tấm thân bất động ấy, hắn tiếp tục cuộc chạy đua tuyệt vọng với số mệnh giữa tiếng đạn ròn rã bắn ra từ chiếc phi cơ đơn độc giữa cánh đồng về phía mé rừng cây để che chở và kéo dài dăm phút giây phù du bảo vệ hắn. Ðến lúc biết là không còn hy vọng gì cả! Hắn đành bước thấp bước cao trở lại con tàu với hai thương binh mà sinh mạng vẫn còn nằm trên làn ranh sống chết, bất lực ngoái lại nhìn ngọn lửa vẫn đang hăm hở thiêu đốt chiếc phi cơ và hình hài của hai bằng hữu hoa tiêu kém may mắn, trung úy Tuấn và thiếu úy Tiến. Tít trên cao tàu tản thương vẫn bay vòng vòng để chia xẻ niềm đau đớn với phi hành đoàn hắn.


BM

Ngồi yên như chết trên chuyến bay hối hả trở lại phi trường Cà Mau, chẳng buồn làm cả cái nhiệm vụ thông thường của một hoa tiêu ghế trái, tay chân rã rời, đầu óc trống rỗng, mắt mờ mờ như muốn khóc mà sao dòng lệ chẳng chịu tuôn ra; hắn cắn chặt răng lại chịu đựng! Có tiếng phía sau rên rỉ, đau đớn, hắn quay lại lặng lẽ nhìn người cơ phi bị thương vừa hồi tỉnh, nằm sóng soải trên sân tàu bên cạnh anh xạ thủ có lẽ bị nặng hơn nên vẫn còn mê man. Bên ngoài nắng đã dịu theo bóng dáng buổi chiều, ngọn gió quen thuộc vẫn luồn qua thân tàu, hắn gục đầu hai bàn tay đập từng hồi vào chiếc nón bay để cố xua đuổi đi nỗi bi thương khốn nạn đang dày vò tâm tư.


Ðăm đăm nhìn theo chiếc trực thăng tản thương đang vội vã băng mình cất cánh rời phi đạo, tiếp tục cuộc chạy đua còn lại với thần chết để dành lại mạng sống của hai thương binh cùng đơn vị; hắn trở lại tàu tiếp tục tình trạng “chờ”, vì phi hành đoàn hắn tình nguyện trở vào vùng để yểm trợ quân bạn tiến vào vị trí con tàu bất hạnh kia với mong mỏi thu lượm những di thể người tử nạn còn sót lại khi đám cháy tan; mặt trời xuống dần mang theo những tàn lụi mong manh của kiếp sống cũng như bao hy vọng nhỏ nhoi tội nghiệp sót lại của hắn! Cho đến khi trời gần sụp tối, chẳng còn làm gì hơn được, phi hành đoàn hắn đành lẻ loi độc phi trên đường trở về căn cứ; gió vẫn thổi, mây vẫn trôi, con tàu vẫn miệt mài bay bay trong niềm đau luyến tiếc những cánh chim mãi mãi vừa lìa đàn, xa bầy!


BM

Trước cửa phòng hành quân, một số nhân viên phi hành của phi đoàn đang tụ tập để hỏi hắn cũng như chia xẻ niềm đau mất mát với người trở lại. Thuận, người bạn cùng khóa, khều nhẹ tay hắn ra ngoài rồi nói nhỏ:

-” Về lẹ đi mày! Vợ mày tưởng mày đã “đi” rồi! Tao có nói mà bã không tin vì hồi tối mày bảo là đi bay với thằng Tuấn, bà ấy đang ôm con khóc như “rươi” ngoài khu cư xá đấy, leo lên đây tao đưa về!”


Chẳng buồn nói một lời, hắn lẳng lặng theo chân bạn ra xe trở về nhà, dọc hai bên đường đèn đã tỏ ngọn. Vừa tới đầu ngõ chưa kịp rẽ vào, hắn đã thấy hình dáng vợ trẹn tay bồng đứa bé chưa tròn tuổi, còn đứa con trai lớn thì đang đứng một bên níu áo mẹ, mắt mũi cả ba mẹ con đang đầm đìa những giọt lệ, trông thấy hắn từ xa vợ hắn bỗng bật khóc lớn thành tiếng.


Hắn vội vàng ôm chầm lấy vợ con mà không kềm được dòng nước mắt, vừa vỗ về an ủi; hai bên con hẻm có nhiều ánh mắt nhìn theo như chia xẻ niềm vui lẫn đau đớn này, hắn liếc nhanh về phía cuối hẻm, trong đó giờ phút này có người thiếu phụ với thai nhi chẳng bao giờ có dịp biết mặt bố đang tuôn tràn những giọt lệ khóc thương cho một mất mát vĩnh viễn; và thằng bé đầu lòng tuổi vừa biết ra ngõ đón mong bố, để rồi không kịp cởi chiếc áo bay còn thoáng mùi thuốc súng, bạn hắn chạy đuổi theo chiếc xe ba bánh be bé mà Tuấn đã dành tất cả số tiền thưởng Tết để mua cho con; những vòng bánh xe con con đó đã vừa đổi chỗ bao vòng quay oan nghiệt cuối cùng cuốn theo niềm hạnh phúc tươi mát ngọt ngào vào hố sâu tàn bạo của tan tác, phân ly! Ðêm xuống thật chậm hun húc như cuốn trôi hắn vào nỗi cay đắng khôn cùng; trên cao hình như có hai vì sao vừa bất chợt rụng rơi!


BM



Sơn Trường